Đó không phải là điều ngẫu nhiên bởi từng có thời kỳ văn sử bất phân. Nhờ các sáng tác đó mà các “ẩn số” lịch sử văn hoá được giải mã.
Văn hoá của thời kỳ nào cũng có những chuẩn mực riêng, là thước đo cái đẹp của thời kỳ đó. Ví dụ như thời trung đại coi áo the, khăn xếp là đẹp, còn người hiện đại lại coi quần jeans, áo phông… là hợp mốt. Như vậy, nếu không hiểu văn hoá ăn mặc của mỗi thời kỳ, lại đem cái chuẩn này đánh giá cái chuẩn kia sẽ sai lầm. Như vậy, khi thưởng thức một tác phẩm văn học, người đọc cũng phải hiểu môi trường văn hóa tác phẩm ấy hình thành mới có thể thấy được cái hay, cái đẹp của nó. Bởi vậy mới nói văn hóa là “chìa khoá” để đi vào thế giới văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung. Chỉ đơn cử như việc tìm hiểu văn học nước ngoài, nếu chúng ta không hiểu văn hóa của họ (tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, quan niệm thẩm mĩ…), chúng ta sẽ không hiểu được văn học của họ. Ví dụ việc tìm hiểu văn học Nhật Bản, chí ít chúng ta cũng phải biết đến văn hoá Trà đạo, Kiếm đạo hay tinh thần Samurai của họ. Để cho nhân vật ngồi uống tách trà ngắm hoa anh đào nở phải hiểu nhân vật ấy đang thư thái, tâm tĩnh như mặt nước mùa thu. Hay một võ sĩ nếu thua cuộc tại sao phải mổ bụng tự sát? Đó là quan niệm về danh dự của người võ sĩ, nếu không biết văn hoá của họ có thể đánh giá sai lầm.
Mỗi dân tộc đều có văn hóa riêng, nghiên cứu văn học không thông qua văn hóa sẽ dẫn đến những nhận định sai lầm, phiến diện. Trong các tác phẩm của nhà văn Hồ Anh Thái gần đây, như cuốn Đức Phật, nàng Savitri và tôi, ngập tràn một màu sắc Phật giáo cũng như phong tục tập quán của người Ấn Độ. Nếu chúng ta không hiểu về văn hóa Ấn Độ, đặt tác phẩm trong môi trường đó thì chắc chắn người đọc không thể đánh giá hết được giá trị của nó, như tại sao các đền đài ở đây lại khắc hình nam nữ giao hoan, tại sao nhà văn lại để giáo lý nhà Phật bên cạnh Kama Sutra Dục lạc kinh?.
Một vấn đề nữa về lý thuyết cần phải tìm hiểu, văn hóa không chỉ là vật chất hiện hữu, còn là những yếu tố tinh thần. Những yếu tố tinh thần này không
những thuộc về ý thức, còn thuộc về vô thức. Ở đây người viết muốn nhắc tới Tâm phân học của C. G. Jung. Tâm phân học là một học thuyết được bắt nguồn từ Phân tâm học của S. Freud. Xuất phát từ những lý thuyết ban đầu của người thầy mình, Jung đã tự tìm cho mình một hướng đi riêng khi chia vô thức con người thành ba tầng:
- Ý thức là phần nhô lên trên mặt nước của hòn đảo.
- Phần chìm dưới nước là vô thức cá thể.
- Cắm sâu dưới đáy biển là vô thức tập thể.
Ông cho rằng vô thức tập thể là những yếu tố ẩn sâu trong tâm lý con người, do những dấu ấn nguyên thủy của cộng đồng chi phối. Như đã nói ở trên, những gì thuộc về con người đều là dấu ấn văn hóa. Bởi vậy khi tìm hiểu văn học theo hướng này, chúng ta cũng không thể không khảo sát tới các yếu tố tâm lý thuộc về vô thức.
Không chỉ vậy, mối quan hệ giữa văn hóa và văn học còn thể hiện ở khả năng điều chỉnh văn hóa của văn học. Có thể nói, văn hóa phát triển theo từng thời kỳ lịch sử. Ở đó có những giá trị vẫn trường tồn, có những giá trị đã mất đi hay gần bị mất đi. Đó là sự “thanh lọc” của thời gian. Thời gian lưu lại những gì đẹp đẽ và “phủ bụi” lên những gì không còn phù hợp. Sự “thanh lọc” ấy một phần nhờ vào vai trò của văn học. Chẳng hạn như tác phẩm Vang bóng một thời của tác giả Nguyễn Tuân. Trước những cách sống đẹp, tao nhã như uống trà, thưởng hoa, thả thơ… đang dần mất đi cùng sự suy tàn của triều đại phong kiến, nhà văn đã dùng văn học để bảo lưu nó. Như vậy, những nét văn hóa đó sống cùng tác phẩm của ông để nhắc nhở chúng ta về một thời quá khứ vàng son, sống mãi cùng tâm thức người Việt. Một tác phẩm được đánh giá là “kỳ thư” như Tôtem sói (Khương Nhung) cũng thể hiện rất rõ điều này. Có lẽ với nhiều nước trên thế giới thì văn hóa du mục và loài sói thảo nguyên vẫn còn rất xa lạ. Chúng ta không biết rằng nền văn hóa đó đang dần bị biến mất bởi sự phát triển của đô thị, của khoa học hiện đại. Tác giả Khương Nhung bằng tác
Có thể bạn quan tâm!
- Tiểu thuyết đàn trời của Cao Duy Sơn từ góc nhìn văn hóa - 1
- Tiểu thuyết đàn trời của Cao Duy Sơn từ góc nhìn văn hóa - 2
- Vài Nét Về Tâm Lý, Tính Cách Người Tày Ở Cao Bằng
- Không Gian “Bản” Trong Tiểu Thuyết Đàn Trời Của Cao Duy Sơn
- Không Gian Phố Thị Trong Tiểu Thuyết Đàn Trời Của Cao Duy Sơn
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
phẩm của mình đã giới thiệu cho bạn đọc thế giới về điều đó. Nó như một tiếng chuông cảnh tỉnh chúng ta về sự lụi tàn của văn hóa du mục, sự biến mất của loài sói thảo nguyên, rộng hơn nữa là sự xói mòn của nhiều nền văn hóa trong cuộc sống hiện tại. Nói cách khác, tác phẩm văn học qua việc phản ánh văn hóa đã tác động vào tình cảm con người, để qua đó điều chỉnh cách sống, cách ứng xử với văn hoá, điều chỉnh hành vi, lối sống văn hóa của con người. Tác phẩm để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc, nhiều tri thức. Tiếng sói tru dưới ánh trăng ám ảnh mỗi người. Bàn về điều này, tác giả Đỗ Lai Thuý cũng khẳng định: “Văn học không thể có ảnh hưởng tức thời, trực tiếp đến hành động của con người mà chỉ có thể tác động đến con người với tư cách là chủ/ khách thể của văn hoá, làm cho con người biến chuyển rồi mới phát sinh hành động cụ thể” [41, 3].
Bàn về mối quan hệ giữa văn hoá và văn học, chúng tôi muốn giải thích tại sao hướng nghiên cứu tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa là cần thiết và đúng đắn. Với những gì đã trình bày ở trên, chúng tôi có thể khẳng định, nhiều tác phẩm văn học nếu chỉ tìm hiểu ở bình diện đạo đức, thẩm mĩ… thì chưa thể khám phá được hết những giá trị của nó. Có nhiều “con đường” đi vào tác phẩm văn học, trong đó có “con đường” văn hoá như tác giả Đỗ Lai Thuý đã khẳng định: “Có thể xây dựng một cách tiếp cận văn học mới như phê bình văn học từ văn hóa. Đây là một phương pháp có nhiều thuận lợi, bởi lẽ nó dẫn người ta đi từ cái đã biết đến cái chưa biết, cái biết nhiều đến cái biết ít, cái toàn thể đến cái bộ phận bằng con đường loại suy” [41, 3].
1.3. Các khuynh hướng nghiên cứu văn học theo hướng văn hóa
Nghiên cứu văn học theo hướng văn hóa học từ lâu trên thế giới đã vô cùng đa dạng và phong phú. Có rất nhiều cách để đi vào tác phẩm thông qua các môi trường văn hóa và từ các phương diện văn hóa được phản ánh vào tác phẩm văn học qua các hình tượng văn học. Trên cơ sở tổng hợp của người viết, về cơ bản, chúng ta có những hướng chính sau đây:
Thứ nhất, định hướng nghiên cứu thi pháp văn hóa, bao gồm thi pháp đối thoại, thi pháp Cácnavan kiểu M. Bakhtin, nghiên cứu mẫu gốc huyền thoại kiểu Northrop Frye, trần thuật lịch sử kiểu H. White, so sánh văn loại học kiểu
E. Miner, phê bình văn hoá kiểu F. Jameson… Về cơ bản, hướng nghiên cứu này tập trung tìm hiểu, khám phá các dấu hiệu văn hóa trong hình thức tác phẩm văn học. Chẳng hạn như việc nghiên cứu “cổ mẫu” (Archetype) là hướng nghiên cứu tập trung vào những biểu tượng văn hóa ảnh hưởng trong vô thức cộng đồng xuất hiện trong sáng tác văn học. Mục đính của thao tác này như C.
G. Jung đã từng tuyên bố: “Nỗi buồn sáng tạo dẫn đưa nghệ sĩ đi vào bề sâu cho tới khi nó tìm thấy trong vô thức mình cái nguyên tượng có khả năng bù đắp lại cao nhất sự tổn thất và què quặt của tinh thần hiện đại” [17]. Nói cách khác, việc tìm hiểu cổ mẫu chính là tìm về cõi vô thức nơi động lực thôi thúc nhà văn viết và ảnh hưởng của nó tới việc xây dựng tác phẩm thông qua những biểu tượng văn hóa. Hay hướng nghiên cứu thi pháp đối thoại kiểu Bakhtin cũng nhằm khám phá bề sâu tác phẩm trong mối quan hệ đối thoại với các văn bản khác trong đó có văn bản văn hóa. Ở đây người viết muốn nhấn mạnh thêm một vấn đề: đấy chính là quan niệm của văn học đương đại coi văn bản không đơn thuần là một quyển sách hay tờ giấy cụ thể nữa mà còn bao gồm những gì thuộc về ý thức, tinh thần. Nói như vậy văn hóa cũng được coi là một văn bản mà văn học trong tính đối thoại của nó cần có mối quan hệ chặt chẽ để nhằm kêu gọi tối đa ý nghĩa. Tính đối thoại này trong biểu hiện của nó cũng ảnh hướng tới việc xây dựng, kết cấu tác phẩm.
Thứ hai, nghiên cứu mối quan hệ văn học với các truyền thống văn hóa, chẳng hạn văn học với Nho học, Đạo học, Phật học, văn hóa với thi ca, văn hóa với tư duy tiểu thuyết, sinh thái tinh thần với thể loại phóng sự… Mối quan hệ văn học với chính trị được nghiên cứu dưới góc độ văn học với văn hóa chính trị, văn học với các thiết chế văn học như nghị quyết về văn học, phê bình văn học, tổ chức văn học, báo chí… Hướng nghiên cứu này tập trung việc đưa văn
học vào môi trường văn hóa với những phong tục, tập quán, tư tưởng, tín ngưỡng… Từ xưa đến nay văn học cũng như tác giả luôn đứng trong một nền văn hóa nào đấy, theo đuổi hay chịu ảnh hưởng của một vài học thuyết, tư tưởng. Cho nên khi khám phá văn bản, chúng ta cũng phải đi sâu vào những phương diện đó để khám phá những biểu hiện cũng như dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc biệt lập tác phẩm văn học với các yếu tố khác như một “hòn đảo cô độc” đã cho thấy sự bế tắc trong nghiên cứu, bởi chỉ đi sâu vào từng câu chữ trong một số lượng tác phẩm hạn chế đã dần cạn đi ý nghĩa. Mở rộng tác phẩm sang nhiều lĩnh vực cũng phù hợp với xu thế thời đại và có triển vọng hơn.
Thứ ba, nghiên cứu “văn học đại chúng”. Nhiều hiện tượng văn học trước đây bị coi là văn học đại chúng, thông tục, không được nghiên cứu nay bắt đầu được tìm hiểu, chẳng hạn tiểu thuyết Kim Dung, các truyện ma... Có thể nói trước kia với quan niệm cũ coi nhẹ tính giải trí của văn học, các thể loại trên chỉ được coi là “cận văn học” thì ngày nay do xu thế thời đại, sự thay đổi quan niệm cũng như sức hút của văn hóa giải trí, dòng văn học này đã được coi là văn học chính thống. Trên thế giới có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhiều công trình viết về các sáng tác của Kim Dung. Họ nhận thấy ở đó không chỉ là những yếu tố giải trí đơn thuần mà thể hiện nhiều quan niệm triết học sâu sắc cũng như mở ra một thế giới văn hóa phong phú, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hình thái ý thức cộng đồng. Chúng ta có thể hình dung một bộ phận ngôn ngữ truyện kiếm hiệp tồn tại trong đời sống của giới trẻ bởi những nhân vật trong thể loại này luôn có sức hấp dẫn lớn, thậm chí trở thành thần tượng đối với xã hội. Ở Việt Nam hướng nghiên cứu này vẫn chưa thật sự cởi mở. Ngoài một số bài viết của nhà “Kim Dung học” Vũ Đức Sao Biển, chúng ta vẫn chưa thật sự mạnh dạn trong hướng nghiên cứu này.
Do năng lực còn hạn chế, chúng tôi mới chỉ tìm hiểu sơ lược một số cách tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, bởi đây là một hướng nghiên cứu khá rộng và phức tạp. Sự phân chia này cũng chỉ mang tính chất tương đối bởi
trong thực tế khuynh hướng này sẽ có sự đan xen với khuynh hướng kia. Tuy nhiên, chúng tôi chọn khuynh hướng nghiên cứu thứ nhất để thực hiện đề tài của mình. Thêm vào đó trong quá trình vận dụng lý thuyết để nghiên cứu đối tượng của mình, chúng tôi sẽ cố gắng áp dụng một cách linh hoạt nhất, sao cho phù hợp với đối tượng mà mình đang tìm hiểu.
1.4. Vài nét về văn hóa Cao Bằng
Như đã đề cập đến ở phần 1.1, văn hóa là một khái niệm có nội hàm rất rộng, để có thể tìm hiểu được mỗi khía cạnh là vấn đề phức tạp. Ở đây chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu những yếu tố văn hóa phục vụ trực tiếp quá trình khảo sát của mình. Nhưng trước hết, chúng tôi muốn trình bày sơ lược về vị trí địa lý của mảnh đất Cao Bằng, bởi nó là yếu tố quan trọng tạo nên đặc sắc văn hóa trong tác phẩm Cao Duy Sơn.
Vị trí địa lý: Tỉnh Cao Bằng là tỉnh miền núi, vùng cao, nằm ở toạ độ địa lý 22022' - 23007' vĩ độ Bắc, 105016' - 106050' kinh độ Ðông, cách thủ đô Hà Nội 286 km. Phía Bắc và Ðông Bắc giáp tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc, có đường biên giới dài trên 311 km. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 6.690,72 km2, chiếm 2,03% diện tích tự nhiên cả nước. Các đường giao thông quan trọng gồm: Tuyến đường quốc lộ 3, quốc lộ 4. Hệ thống sông ngòi chính gồm có sông Bằng Giang, sông Gâm, sông Bắc Vọng, sông Quây Sơn.
Ðịa hình: Ðặc điểm địa hình tỉnh Cao Bằng chia cắt phức tạp bởi nhiều dãy núi cao, xen kẽ là những sông suối ngắn, thung lũng hẹp, độ dốc lớn với vùng núi chiếm 90% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, gồm: Núi đá vôi chiếm 25% diện tích toàn tỉnh; núi đất chiếm 65% diện tích toàn tỉnh. Ðiểm cao nhất có độ cao 1.980 m; điểm thấp nhất có độ cao dưới 200 m. Ðộ cao trung bình 600 - 1000 m so với mực nước biển.
Khí hậu: Cao Bằng có khí hậu mang tính chất đặc thù của dạng khí hậu lục địa miền núi cao (khí hậu châu Á nhiệt đới), thể hiện 4 mùa trong năm nhưng rõ rệt nhất là mùa hè và mùa đông, biên độ nhiệt độ thay đổi lớn, lượng
mưa ít và phân bố không đều. Mưa, bão tập trung từ tháng 5 đến tháng 8 với lượng mưa trung bình hàng năm là 1.500 mm. Vùng mưa nhiều gồm các huyện Nguyên Bình, Bắc Hà Quảng, Thông Nông, Trà Lĩnh, Quảng Hoà, Hạ Lang là
1.500 - 1.900 mm; vùng mưa trung bình: Hòa An, Nam Hà Quảng, Trùng Khánh là 1.300 - 1.500 mm. Các hiện tượng gió lốc, gió bấc, tuyết rơi, sương muối, mưa đá xảy ra thường xuyên. Nhiệt độ trung bình hàng năm cao nhất 350C, thấp nhất 00C. Hàng năm có 3 tháng mùa hè (từ tháng 6 đến tháng 8), nhiệt độ trung bình là 30 - 400C, tháng nóng nhất là tháng 7; mùa đông nhiệt độ trung bình là 5 - 60C, tháng lạnh nhất là tháng 1. Tần suất sương muối thường xảy ra vào tháng 1 và tháng 2. “Toàn cảnh thị xã Cao Bằng gọn lỏn, lúp xúp như một bãi bồi. Ở đó có những con đường ngắn tũn, chúng bị kẹp chặt bởi hai con sông Hiến, sông Bằng. Bốn mùa nước sông lơ lớ xanh. Con sông cũng lười biếng như người. Nó thả bóng mây trôi đi giữa hai hàng tre trăm tuổi. Còn những búi tre hai ven đường trông như các bà Bụt đang trùm khăn nâu đỏ. Thỉnh thoảng các bà rung lên từng cơn, rú lên từng hồi, đuổi con ma tà ma ní trở về Mường Xúi” [26, 57].
Có lẽ do đặc điểm vị trí địa lý như vậy nên con người và văn hóa Cao Bằng cũng mang nhiều đặc trưng riêng. Các dân tộc chính sinh sống ở địa bàn tỉnh Cao Bằng gồm Tày, Nùng, Dao, H’Mông… Vì đối tượng khảo sát của chúng tôi là tác phẩm của tác giả người Tày nên ở đây người viết cũng chỉ tập trung chủ yếu vào dân tộc này.
1.4.1. Văn hóa tín ngưỡng dân tộc Tày ở Cao Bằng
Do sản sinh ra trên cơ sở của một nền nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, mang tính chất tự cung tự cấp… cho nên những tàn dư của các tín ngưỡng nguyên thủy còn tồn tại trong đời sống tâm linh của người Tày như: Vật linh giáo, ma thuật, bái vật giáo (thờ cây đa to, thờ hòn đá kỳ dị…). Các lễ nghi liên quan đến sản xuất nông nghiệp, săn bắt, đánh cá, các nghề nghiệp, các hình thái tôn giáo của xã hội có giai cấp ngày càng phát triển thịnh hành.
Tiêu biểu nhất trong tín ngưỡng, tôn giáo của người Tày là thờ cúng tổ tiên, bắt nguồn từ thờ cúng gia tộc, thị tộc ở thời kỳ trước. Tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên là muốn nhắc nhở con cháu phải giữ gìn truyền thống, vừa khẳng định và củng cố nền tư hữu (tức kế thừa tài sản). Cho nên bàn thờ tổ tiên được đặt ở nơi quan trọng nhất của mỗi nhà. Thờ cúng tổ tiên là trách nhiệm của con trưởng. Không kể các dịp lễ tết, người ta thường dâng hương hoa, lễ vật mỗi tháng hai lần vào ngày mùng một và ngày rằm âm lịch.
Ngoài việc thờ cúng tổ tiên trong mỗi gia đình người Tày ra thì ở trong phạm vi thôn bản, họ còn thờ Thổ Công (Cốc bản), Thổ Địa, thờ các vị thánh trong vùng mà họ gọi là thấn (thần). Vì Thổ Công là vị thần bảo lãnh làng bản, mùa màng… như ở xã Phương Thiện thờ thần chung của mường là “Mường Pha Hán, Man Phia Tiên, Nàng tiên chúa Ngọc Cần” ở núi Cấm. Nhà văn Y Phương cũng từng viết về tín ngưỡng mảnh đất quê mình: “làng tôi có đến ba bốn ngôi đền thờ Thổ Công xây bằng đá hộc. Mỗi xóm có một ngôi đền trấn giữ ma quỷ. Đằng sau và hai bên tả hữu ngôi đền có năm sáu cây cổ thụ, các vị đều thọ trên trăm năm tuổi.
Nương theo tâm linh, những chòm cây cổ thụ, đó chính là hình ảnh của các bậc tiền nhân” [26, 151].
Hệ thống điện thần của người Tày đã phát triển cao, có đủ mặt các vị từ Ngọc Hoàng, Nam tào, Bắc đẩu, Thần sông, Thần núi… cho tới các loại thánh thần, ma quỷ ở địa phương. “Người Tày gọi là mẻ bjooc mẻ woa - Mẹ Hoa. Bất kể trong nhà người Tày nào, dù định cư nơi đâu họ cũng đều lập bàn thờ Mẹ Hoa. Bàn thờ đặt vào nơi trang trọng nhất. Mùng một, hôm rằm hoặc lễ, tết, người nhà phải thắp hương cúng khấn. Mẹ Hoa không những là người cai quản mà còn phân phối chia đều con trai, con gái, cho từng nhà, từng người. Ai hiếm muộn phải lập đàn chay cúng khấn thỉnh cầu Mẹ Hoa. Mẹ cho đậu mới được đậu. Mẹ Hoa là người có vị trí vô cù ng quan trọng trong thế giới tâm linh người Tày, Nùng” [26, 131]. Hàng năm vào mùa xuân, người ta thường tổ chức cúng trên một đám ruộng nhất định trước bản, mỗi gia đình đều có mâm lễ để cúng, gồm: rượu, thịt, các loại bánh, xôi ngũ sắc… Những dịp này thường gọi là hội