D Và 3.4.g Mục Này Mà Gây Thiệt Hại Cho Bên Bảo Lãnh Thì Bên Bảo Lãnh Có Quyền Yêu Cầu Bồi Thường Thiệt Hại Và Sử Dụng Số Tiền Bồi Thường Thiệt


tiếp tục trả một lần nữa, thì người được bảo lãnh hoàn toàn không có lỗi gì, và như vậy người bảo lãnh mất quyền yêu cầu họ (Điều 45, Nghị định 163/CP).

Từ phân tích này có thể rút ra một kết luận. Để có quyền yêu cầu đối với người được bảo lãnh, người bảo lãnh sau khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, phải thông báo cho người được bảo lãnh trước khi người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh đối với người nhận bảo lãnh [16, tr.74].

Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp nêu trên, quyền yêu cầu của người bảo lãnh không mất đi mà nó được chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác, từ người được bảo lãnh sang người nhận bảo lãnh.

Một trong những quyền quan trọng nữa của người bảo lãnh, đó là quyền yêu cầu người cùng bảo lãnh. Đoạn 2, Điều 365 BLDS quy định, khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì có quyền yêu cầu người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình.

Trước tiên cần khẳng định quyền yêu cầu này chỉ xuất hiện trong bảo lãnh liên đới giữa các đồng bảo lãnh mà không xảy ra đối với loại bảo lãnh theo phần độc lập. Theo quy định của điều luật, một trong số các đồng bảo lãnh đã thực hiện thay cho bên được bảo lãnh, thì nghĩa vụ chấm dứt. Toàn bộ nghĩa vụ ở đây cần phải hiểu là nghĩa vụ bảo lãnh chứ không phải nghĩa vụ được bảo lãnh.

Ví dụ: C có khoản nợ 1 tỷ đồng, A và B cam kết bảo lãnh 500 triệu. Đến hạn, A đứng ra trả toàn bộ 500 triệu sau đó A đòi B thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Trường hợp này A chỉ phải thực hiện nghĩa vụ 500 triệu là phát sinh quyền yêu cầu đối với B mà không phải thực hiện toàn bộ 1 tỷ mới phát sinh quyền yêu cầu.

Từ những quy định mang tính chất nguyên tắc của BLDS, các văn bản luật chuyên ngành đã cụ thể hóa các quyền, nghĩa vụ của bên bảo lãnh. Tại


Điều 3 của Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT/BLĐTBXH-BTP ngày 11/7/2007của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội-Bộ Tư pháp hướng dẫn chi tiết một số vấn đề về nội dung hợp đồng bảo lãnh và thanh lý hợp đồng bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có quy định:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Quyền của bên bảo lãnh:

Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác, bên bảo lãnh có các quyền sau:

Bảo lãnh trong pháp luật dân sự Việt Nam - 8

a) Được bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh và các bên có liên quan thông tin đầy đủ, chính xác về quyền và nghĩa vụ của bên được bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh;

b) Yêu cầu bên nhận bảo lãnh thông báo về nơi làm việc, tình hình việc làm, thu nhập, sức khỏe, điều kiện làm việc, điều kiện sinh hoạt của bên được bảo lãnh;

c) Yêu cầu bên nhận bảo lãnh thực hiện đúng cam kết với bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh;

d) Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ nêu tại các điểm 3.4.a; 3.4.b;

3.4.d và 3.4.g Mục này mà gây thiệt hại cho bên bảo lãnh thì bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và sử dụng số tiền bồi thường thiệt hại đó để bù trừ nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh, nếu có.

Nghĩa vụ của bên bảo lãnh

a) Chuyển giao giấy tờ, tài liệu chứng minh khả năng tài chính, năng lực, uy tín của mình và các loại giấy tờ cần thiết khác cho bên nhận bảo lãnh;

b) Vận động, giáo dục bên được bảo lãnh thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh; thực hiện các biện pháp cần


thiết để ngăn ngừa, khắc phục thiệt hại do bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng gây ra;

c) Thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong phạm vi đã cam kết trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng đã ký với bên nhận bảo lãnh;

d) Giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên nhận bảo lãnh hoặc người thứ ba theo thỏa thuận để xử lý trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ bảo lãnh [11].

2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người được bảo lãnh

Do đặc điểm của quan hệ bảo lãnh, người được bảo lãnh không nhất thiết phải biết việc có người thứ ba đứng ra bảo lãnh cho nghĩa vụ của mình. Vì vậy, cần phải phân ra làm hai trường hợp.

Trường hợp thứ nhất, người được bảo lãnh không biết có tồn tại quan hệ bảo lãnh... Do không biết và không đóng vai trò gì trong hợp đồng bảo lãnh, do vậy, người được bảo lãnh hầu như không có quyền gì mà chỉ có một nghĩa vụ đáng kể đó là nghĩa vụ hoàn trả lại cho người bảo lãnh phần giá trị mà người này đã thực hiện thay cho mình (theo quy định tại Điều 367 BLDS).

Trường hợp thứ hai, người được bảo lãnh yêu cầu người bảo lãnh đứng ra bảo lãnh cho nghĩa vụ của mình, chúng ta thường gặp loại hình này trong hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng. Khi đó, người được bảo lãnh có những quyền và nghĩa vụ sau:

Quyền đề nghị một cá nhân, tổ chức nào đó đứng ra bảo lãnh cho nghĩa vụ của mình kèm theo với quyền này, người được bảo lãnh phải có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, chính xác và trung thực các tài liệu, thông tin theo yêu cầu của người bảo lãnh.


Quyền yêu cầu người bảo lãnh thực hiện đúng cam kết bảo lãnh và các thoả thuận trong hợp đồng cấp bảo lãnh và có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ, đúng hạn các nghĩa vụ đã cam kết.

Quyền khởi kiện bên bảo lãnh, chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ, đồng thời có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ và đúng hạn phí bảo lãnh (nếu có).

Nói riêng trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng, quyền của bên được bảo lãnh hầu như là phụ thuộc trong mối quan hệ với bên bảo lãnh. Sự phụ thuộc ở đây được hiểu là khi có nhu cầu bảo lãnh, bên được bảo lãnh phải thoả mãn các điều kiện mà bên bảo lãnh đã đưa ra. Hoặc, trong quá trình tham gia quan hệ bảo lãnh, bên được bảo lãnh còn phải có nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu của bên bảo lãnh như cung cấp đầy đủ và trung thực các tài liệu và thông tin theo yêu cầu của TCTD.

2.2.3. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh

Hợp đồng bảo lãnh là loại hợp đồng đơn vụ, ta chỉ thấy nghĩa vụ của người bảo lãnh mà dường như không thấy một nghĩa vụ nào từ người nhận bảo lãnh [16, tr. 20]. Trong quan hệ này người nhận bảo lãnh chỉ có quyền. Trong luật dân sự hiện hành không tồn tại một quy định cụ thể nào về quyền và nghĩa vụ của người nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, qua phân tích các quy định rải rác ở các điều luật khác nhau, ta có thể thấy, người nhận bảo lãnh có một quyền rất quan trọng là quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Tuỳ theo nội dung giao kết trong hợp đồng bảo lãnh, mà bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trước hoặc sau khi yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Nếu là bảo lãnh liên đới, thì khi nghĩa vụ đến hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện, người nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Ngược lại, nếu nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ dự bị, sau khi chứng minh được


người được bảo lãnh không còn khả năng thanh toán thì người nhận bảo lãnh mới có quyền yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Tuy nhiên, vấn đề quyền yêu cầu của bên nhận bảo lãnh, hiện tại pháp luật chưa có quy định cụ thể về cách thức yêu cầu. Theo mẫu thư bảo lãnh của một số TCTD thì TCTD phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh khi nhận được yêu cầu thực hiện bảo lãnh của bên nhận bảo lãnh. Tuy vậy, về hình thức của văn bản yêu cầu này lại không được các bên thoả thuận rõ và pháp luật cũng không có quy định. Do sự không rõ ràng về cách thức yêu cầu của bên nhận bảo lãnh đối với bên bảo lãnh sẽ là khó khăn cho bên nhận bảo lãnh trong việc thực hiện các quyền cũng như tuân thủ các nghĩa vụ của mình. Vì vậy, quyền lợi của bên nhận bảo lãnh sẽ bị ảnh hưởng.

Tại điểm 3.3 và 3.4 Mục II của Thông tư liên tịch nêu trên có quy định các quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh như sau:

Bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh chuyển giao giấy tờ, tài liệu chứng minh khả năng tài chính, năng lực, uy tín của mình và các loại giấy tờ cần thiết khác; b) yêu cầu bên bảo lãnh có các biện pháp vận động, giáo dục bên được bảo lãnh thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh; c) yêu cầu bên bảo lãnh đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để xử lý trong trường hợp hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ bảo lãnh.

Bên nhận bảo lãnh có các nghĩa vụ sau: thực hiện đúng các cam kết với bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh; thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời cho bên bảo lãnh các quyền và nghĩa vụ của bên được bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh; thông báo về nơi làm việc, tình hình làm việc, thu nhập, sức khỏe, điều kiện làm việc, điều kiện sinh hoạt của bên được bảo lãnh theo yêu cầu của bên bảo lãnh; giữ gìn, bảo quản, không làm hư hỏng, mất giấy tờ, tài


liệu chứng minh khả năng tài chính, năng lực, uy tín của bên bảo lãnh, nếu các bên có thỏa thuận về việc bên nhận bảo lãnh giữ giấy tờ, tài liệu này. Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh làm hư hỏng hoặc mất giấy tờ, tài liệu của bên bảo lãnh thì phải bồi thường thiệt hại; thông báo cho bên bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi phát sinh căn cứ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định tại Điều 41 Nghị định số 163/2006/NĐ- CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; nếu bên được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ, nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đó thì bên nhận bảo lãnh phải nêu rõ lý do trong thông báo về việc bên được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn; cung cấp cho bên bảo lãnh giấy tờ, tài liệu chứng minh về thiệt hại do bên được bảo lãnh gây ra; hoàn trả giấy tờ, tài liệu chứng minh khả năng tài chính, năng lực, uy tín của bên bảo lãnh (nếu có) khi hợp đồng bảo lãnh chấm dứt [8].

2.2.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan

Về cơ bản, trong quan hệ bảo lãnh chỉ tồn tại các chủ thể đã phân tích trên. Tuy nhiên, trong một số quan hệ bảo lãnh đặc thù như bảo lãnh ngân hàng, thì còn xuất hiện một số bên liên quan đến việc bảo lãnh của TCTD, như bên bảo lãnh đối ứng, bên xác nhận bảo lãnh, bên bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng đối với TCTD bảo lãnh và các bên khác (Quyết định số 26/2006/QĐ - NHNN ngày 19/6/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế bảo lãnh nghĩa vụ).

Như đã trình bày ở trên, nghĩa vụ bảo lãnh là một nghĩa vụ dân sự, nếu người bảo lãnh hay chính xác hơn là toàn bộ khối tài sản của người bảo lãnh không làm cho người nhận bảo lãnh yên tâm (vì có thể lúc giao kết hợp đồng bảo lãnh thì khối tài sản của người bảo lãnh là rất lớn, xong khi nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh, khối tài sản này không còn gì). Khi đó, người nhận bảo lãnh và


người bảo lãnh có thể thỏa thuận một biện pháp bảo đảm nào đó nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ bảo lãnh. Hai bên có thể tiếp tục lựa chọn biện pháp bảo lãnh, khi đó ta có bảo lãnh của bảo lãnh, tức là nghĩa vụ ban đầu được bảo đảm bằng hai khối tài sản của hai người bảo lãnh khác nhau. Lúc này sẽ xuất hiện bên bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh là bên có liên quan. Việc xác lập quan hệ bảo đảm này là hoàn toàn độc lập với giao dịch được bảo lãnh được xác lập ban đầu. Hoặc khi quan hệ bảo lãnh là bảo lãnh gián tiếp, khi đó có sự xuất hiện của Ngân hàng bảo lãnh đối ứng là bên có liên quan [bảo lãnh đối ứng là một bảo lãnh Ngân hàng do tổ chức tín dụng (Bên phát hành bảo lãnh đối ứng) phát hành cho một tổ chức tín dụng khác (bên bảo lãnh) về việc đề nghị bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp, khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên phát hành bảo lãnh đối ứng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh.

Mặc dù các quy định của BLDS chưa thể hiện cụ thể các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ bảo lãnh, song các quy định của pháp luật chuyên ngành đã phần nào khắc phục được những hạn chế này. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng, cần thiết phải bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh. Bên cạnh đó, khi xem xét tính chất của quan hệ bảo lãnh chúng tôi cho rằng việc quy định cụ thể một số quyền và nghĩa vụ của bên được bảo lãnh như quyền đề nghị, nghĩa vụ nộp phí bảo lãnh là chưa phù hợp với nguyên tắc thoả thuận trong ký kết hợp đồng. Điều đó có nghĩa là khi thoả thuận tại hợp đồng chính, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có thể thoả thuận về việc bên nào đề nghị bảo lãnh và nộp phí bảo lãnh. Do đó, việc pháp luật quy định cụ thể đó là quyền và nghĩa vụ của bên được bảo lãnh là chưa chính xác.


2.3. Thời điểm, thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

Quan hệ bảo lãnh phát sinh trên cơ sở thoả thuận giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thông qua hợp đồng. Việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh phát sinh khi bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên, việc xác định rõ thời điểm và thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là rất cần thiết cho các bên trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

- Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

Việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh chỉ được đặt ra khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ (Điều 361 BLDS). Trước thời hạn đó, nếu các bên không có thoả thuận thì bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đó (khoản 1 Điều 366 BLDS).

Theo quy định của Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 về giao dịch bảo đảm hướng dẫn thi hành một số quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong Bộ luật dân sự, thì căn cứ để thực hiện nghĩa vụ do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định, bao gồm các trường hợp: (1) Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh; (2) Bên được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ đó, nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; (3) Bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình [8].

Trường hợp thứ nhất, khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh (nghĩa vụ chính) mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Với quy định này, ta thấy rõ ý định của nhà làm luật trong việc thiết lập nghĩa vụ liên đới giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh. Nghĩa là,

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 02/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí