Khiếu Nại Quyết Định Liên Quan Đến Việc Xác Lập Quyền Đối Với Nhãn

Công ước Paris, quy định về nghĩa vụ dành quyền ưu tiên trên cơ sở đơn đầu tiên nộp ở một nước thành viên. Luật quốc gia các nước đều quy định về quyền ưu tiên theo công ước Paris trên cơ sở đơn nộp ở nước ngoài. Đa số các luật quốc gia đều quy định cả quyền ưu tiên trên cơ sở đơn nộp trong nước. Nghị định 63/CP cũng đã quy định về việc người nộp đơn được yêu cầu hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở một đơn yêu cầu bảo hộ của cùng một đối tượng được nộp sớm hơn tại một nước khác hoặc trên cơ sở việc trưng bày đối tượng nêu trong đơn tại một triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức tổ chức tại Việt Nam hoặc tại một nước khác. Việc công nhận quyền ưu tiên trên cơ sở trưng bày triển lãm thực ra chỉ phù hợp với các đối tượng yêu cầu phải thỏa mãn tính mới như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp…. Ngược lại, đối với nhãn hiệu, việc công nhận quyền ưu tiên trên cơ sở trưng bày triển lãm lại không thống nhất với nguyên tắc

# nộp đơn đầu tiên # của hệ thống bảo hộ dựa trên cơ sở đăng ký. Vì lý do đó, luật SHTT đã loại bỏ căn cứ hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở trưng bày triển lãm. Thêm vào đó, để phù hợp với quy định trong các điều ước quốc tế luật cũng cho phép người nộp đơn có quyền yêu cầu hưởng quyển ưu tiên trên cơ sở nhiều đơn khác nhau được nộp sớm hơn.

Nội dung về quyền ưu tiên trong Luật SHTT có nhiều điểm mới so với quy định trong Nghị định 63. Đồng thời với việc loại bỏ cơ sở hưởng quyền ưu tiên dựa vào việc trưng bày đối tượng tại triển lãm quốc tế thì luật SHTT cho phép hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đầu tiên đã được nộp tại Việt Nam, trên cơ sở nhiều đơn khác nhau được nộp sớm.

Để được hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đơn đăng ký bảo hộ cho cùng một đối tượng Người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu cần phải cung cấp các tài liệu chứng minh việc thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 91 Luật SHTT về địa điểm nộp đơn đầu tiên, tư cách chủ thể của người nộp đơn, bản sao đơn đầu tiên và thời hạn nộp đơn. Đơn đăng ký nhãn hiệu được hưởng quyền ưu tiên có ngày ưu tiên là ngày nộp đơn của đơn đầu tiên.

2.2.2.3. Yêu cầu đối với đơn

Đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cần phải thỏa mãn các yêu cầu quy định tại Điều 100, 101, 105 của Luật SHTT. Trước đây, nội dung này chỉ được quy định trong các văn bản dưới luật, giá trị pháp lý thấp hơn. Với việc quy định cụ thể yêu cầu đối với đơn trong Luật SHTT tính pháp lý của nội dung này nâng lên ở mức cao nhất, đảm bảo việc áp dụng trên thực tế rõ ràng và thống nhất.

Về tính thống nhất, đơn đăng ký nhãn hiệu không được yêu cầu cấp văng bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp khác, cho nhiều hơn một nhãn hiệu.

Về các tài liệu có trong đơn cần bao gồm:

- Tờ khai đăng ký theo mẫu quy định;

- Mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 146 trang tài liệu này.

- Giấy ủy quyền, nếu đơn nộp thông qua đại diện;

- Tài liệu chứng minh quyền đăng ký, nếu người nộp đơn thụ hưởng quyền đó của người khác;

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005 - 11

- Tài liệu chứng minh quyền ưu tiên, nếu có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên;

- Chứng từ nộp phí, lệ phí.

Ngoài ra, đối với nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận thì đơn còn cần phải bao gồm quy chế sử dụng hai loại nhãn hiệu này.

Các nội dung mới được đưa vào trong yêu cầu đối với đơn đăng ký nhãn hiệu cũng tương ứng với những loại nhãn mới được bổ sung hoặc điều chỉnh trong Luật SHTT so với Nghị định 63.

2.2.2.4. Thẩm định đơn

Đơn đăng ký nhãn hiệu sau khi được tiếp nhận sẽ được Cục SHTT thực hiện thẩm định. Việc thẩm định đơn được tiến hành gồm hai bước: thẩm định về mặt hình thức và thẩm định về mặt nội dung.

Giai đoạn thẩm định về mặt hình thức được thực hiện nhằm xác định đơn có thỏa mãn các yêu cầu về mặt hình thức để được chấp nhận là đơn hợp lệ hay không. Ngoài ra, trong giai đoạn này Cục SHTT cũng sẽ xác định xem chủ thể đứng tên trong đơn đăng ký nhãn hiệu có quyền nộp đơn hay không, cách thức

nộp đơn có đúng với quy định của pháp luật hay không. Nếu đơn còn có thiếu sót cần phải sửa đổi hoặc bổ sung hoặc làm rõ thì Cục SHTT sẽ gửi tới người nộp đơn một thông báo có chỉ rõ nội dung cần khắc phục và/hoặc chứng minh và trong mọi trường hợp người nộp đơn đều có thời hạn là 01 tháng để có ý kiến phản hồi. Nếu ý kiến phản hồi của người nộp đơn là thỏa đáng thì đơn sẽ được chấp nhận hợp lệ, ngược lại, đơn sẽ bị từ chối chấp nhận đơn. Đơn đã bị từ chối chấp nhận đơn sẽ được coi là đã được nộp, trừ trường hợp đơn được dùng làm căn cứ để yêu cầu hưởng quyền ưu tiên. Quy định này rất có ý nghĩa, trước hết là với những người nộp đơn khác có ngày nộp đơn sau vì điều đó có nghĩa đơn này sẽ không được sử dụng để làm đối chứng ngăn trở việc đạt được sự bảo hộ cho một đơn khác nếu đơn đó đăng ký cho nhãn hiệu trùng hoặc tương tự sử dụng cho sản phẩm, dịch vụ trùng, hoặc tương tự, hoặc cùng loại, mặt khác, chính chủ đơn sẽ vẫn không mất đi lợi thế khi vẫn được hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đơn này.

Thời hạn thẩm định hình thức đăng ký nhãn hiệu là 01 tháng kể từ ngày nộp đơn. (Không kể thời gian dành cho việc bổ sung, sửa đổi đơn.)

Việc một đơn đăng ký nhãn hiệu được chấp nhận hợp lệ hoàn toàn không chứng tỏ nhãn hiệu trong đơn sẽ được chấp nhận bảo hộ. Để xác định khả năng bảo hộ của một nhãn hiệu Cục SHTT phải tiến hành thẩm định nội dung đơn đăng ký.

Giai đoạn thẩm định nội dung đơn đăng ký nhãn hiệu là giai đoạn Cục SHTT trên cơ sở căn cứ các quy định của pháp luật để đánh giá khả năng tự phân biệt của nhãn hiệu, so sánh nhãn hiệu đang xem xét với các dữ liệu về nhãn hiệu đang được bảo hộ và đăng ký tại Cục SHTT để xác định xem nhãn hiệu yêu cầu đăng ký có thỏa mãn các tiêu chuẩn bảo hộ được pháp luật quy định hay không. Giai đoạn này được Cục SHTT tự động tiến hành mà không cần có bất kỳ yêu cầu nào từ người nộp đơn.

Thời hạn thẩm định nội dung đơn là 09 tháng kể từ ngày công bố đơn. Thời hạn này mới được sửa đổi và có hiệu lực từ 01.01.2010. Trước đó, luật SHTT quy định thời hạn này là 06 tháng. Sở dĩ có sự điều chỉnh kéo dài thời hạn thẩm định

nội dung là do cần phải đảm bảo sự phù hợp với việc thực hiện các thời hạn khác trong các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đồng thời đảm bảo một khoảng thời gian hợp lý để cơ quan thẩm định đơn thực hiện việc thẩm định một cách chính xác.

Liên quan đến thẩm định nội dung nhãn hiệu, hiện nay trên thế giới tồn tại ba hệ thống thẩm định nội dung, đó là:

Hệ thống thứ nhất: cơ quan đăng ký thẩm định nhãn hiệu trên cơ sở đánh giá các tiêu chí về tính tự phân biệt của nhãn hiệu và dấu hiệu loại trừ (cơ sở tuyệt đối), đánh giá tiêu chí về xung đột quyền (khả năng tương tự gây nhầm lẫn với các nhãn hiệu khác đang được bảo hộ hoặc có ngày nộp đơn sớm hơn hoặc các đối tượng SHTT khác đang được bảo hộ) (cơ sở tương đối) và các thông tin phản đối đơn. Việt Nam là một trong những nước áp dụng hệ thống thẩm định nội dung này.

Hệ thống thứ hai: cơ quan đăng ký chỉ thẩm định nhãn hiệu trên “cơ sở tuyệt đối” và cấp đăng ký cho nhãn hiệu. Pháp luật không quy định về thủ tục phản đối đơn mà cho phép chủ sở hữu quyền có trước được hủy nhãn hiệu đăng ký thông qua thủ tục phản đối đăng ký nhãn hiệu trên cơ sở tương đối.

Hệ thống thứ ba: cơ quan đăng ký thẩm định nhãn hiệu trên “cơ sở tuyệt đối” và thủ tục phản đối đơn. Theo hệ thống này, chủ sở hữu quyền có trước có thể phản đối đơn nhãn hiệu vi phạm quyền của mình trên “cơ sở tương đối”.

Như vậy, có thể thấy trong ba hệ thống thẩm định nhãn hiệu thì hệ thống thứ nhất (Việt Nam đang áp dụng) là hệ thống chặt chẽ nhất, đảm bảo văn bằng được cấp ra có giá trị, hạn chế tối đa việc hủy bỏ hiệu lực văn bằng. Tuy nhiên, hệ thống này đòi hỏi cơ quan đăng ký phải thực hiện rất nhiều công việc, thời gian cấp văn bằng bảo hộ dài nhưng đổi lại tính ổn định trong hệ thống bảo hộ nhãn hiệu cao, phù hợp với trình độ phát triển chung của xã hội khi mà nhận thức cũng như ý thức của công chúng đối với việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, tôn trọng quyền của người khác chưa cao, hệ thống các cơ quan thực thi phát triển chưa mạnh.

2.2.2.5. Công bố đơn, văn bằng bảo hộ

Đơn đăng ký nhãn hiệu đã được chấp nhận đơn, nhãn hiệu đã được chấp nhận bảo hộ sẽ được công bố trên công báo quốc gia về sở hữu công nghiệp. Mục đích của việc công bố này là nhằm tạo điều kiện cho bất kỳ người nào quan tâm có thể có ý kiến về việc cấp hay không cấp văn bằng bảo hộ cho một nhãn hiệu. Hoạt động này rất có ích trong giai đoạn thẩm định nội dung đơn. Đây được coi như một kênh thông tin để Cục SHTT nhận được những thông tin phục vụ cho việc ra quyết định về việc cấp hay không cấp một văn bằng bảo hộ.

Thời hạn công bố đơn là 02 tháng tính từ ngày đơn được chấp nhận là đơn hợp lệ.

Đa số các nước trên thế giới chỉ thực hiện việc công bố một lần, hoặc là sau khi đã thẩm định cơ sở tuyệt đối (đối với những nước không thực hiện việc thẩm định nội dung như các nước trong hệ thống OHIM) hoặc sau khi đã thẩm định về mặt nội dung nhưng trước khi ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ (như Mỹ, Nhật…). Việt Nam thực hiện việc công bố hai lần như vậy nhằm hạn chế đến mức tối đa việc bảo hộ những nhãn hiệu không đạt tiêu chuẩn luật định, đồng thời tạo điều kiện tối đa cho công chúng trong việc tự bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu của mình nếu phát hiện ra một nhãn hiệu có khả năng xâm phạm quyền của mình sẽ hoặc đã được bảo hộ.

2.2.2.6. Phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ

Nội dung về quyền của người thứ ba có ý kiến về việc cấp hoặc không cấp văn bằng bảo hộ trong Luật SHTT cơ bản không khác so với Nghị định 63. Tuy nhiên, điểm khác trước là nếu như trước đây trong Nghị định chỉ quy định về mặt nguyên tắc mà không có văn bản dưới luật hướng dẫn thủ tục thực hiện quyền nên gây ra những lúng túng nhất định về mặt thủ tục cũng như khả năng thực hiện thì sau khi luật SHTT ra đời, trong Thông tư 01 đã quy định tương đối cụ thể cách thức xử lý ý kiến của người thứ ba, theo đó khẳng định: văn bản nêu ý kiến của người thứ ba được coi là một nguồn thông tin cho quá trình xử lý đơn đăng ký nhãn hiệu. Thông tư cũng quy định trình tự, thời hạn để các bên xử lý thông tin

nhận được. Tuy nhiên, việc quy định thời hạn như vậy trong quá trình thực hiện cũng bộc lộ những điểm chưa hợp lý: Thông tư quy định “trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được ý kiến bằng văn bản của người thứ ba, Cục SHTT thông báo ý kiến đó cho người nộp đơn…”, “trong trường hợp xét thấy ý kiến của người thứ ba là không có cơ sở, Cục SHTT phải thông báo về ý kiến đó cho người nộp đơn, nhưng phải thông báo cho người thứ ba về việc từ chối xem xét ý kiến, có nêu rõ lý do”. Như vậy, trong bất kỳ trường hợp nào Cục SHTT cũng phải xử lý ngay thông tin về việc phản đối đơn cũng như đơn (thực tế nhiều trường hợp chỉ thông qua việc xử lý đơn mới xác định được thông tin phản đối cấp có sử dụng được hay không) nếu không sẽ vi phạm quy định về thời hạn “01 tháng”. Tuy nhiên, việc xem xét các tài liệu liên quan đến phản đối đơn thường rất phức tạp và mất nhiều thời gian, trong khi để thẩm định nội dung một đơn bình thường luật cho phép được thực hiện trong thời hạn 09 tháng thì những đơn có phản đối lại phải xem ngay trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được đơn phản đối và điều không hợp lý. Để tạo điều kiện cho Cục SHTT có thời gian xem xét một cách thỏa đáng các ý kiến phản đối đơn đồng thời vẫn đảm bảo quyền của người phản đối thì luật nên quy định rằng “Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được ý kiến bằng văn bản của người thứ ba, Cục SHTT thông báo ý kiến đó cho người nộp đơn. Kết thúc thời hạn thẩm định nội dung Cục SHTT phải thông báo cho người thứ ba về việc xử lý ý kiến phản đối. Trong trường hợp xét thấy ý kiến của người thứ ba là không có cơ sở, Cục SHTT phải thông báo về việc từ chối xem xét ý kiến đó, có nêu rõ lý do.”

Một điểm hoàn toàn mới của pháp luật hiện hành so với quy định trước đây đó là quy định về việc người phản đối có thể nộp đơn yêu cầu Tũa ỏn giải quyết việc phản đối đó nếu Cục Sở hữu trí tuệ xét thấy không thể xác định ý kiến của người thứ ba là có cơ sở hay không.

Một điểm mới nữa trong quy định liên quan đến quyền có ý kiến của người thứ ba về việc cấp hay không cấp văn bằng bảo hộ là nếu như trước đây việc có ý kiến không phải nộp phí thì hiện nay, theo Luật SHTT người phản đối sẽ phải nộp

một khoản phí nhất định. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của người phản đối, khiến họ phải cân nhắc hơn trước khi phản đối, tránh việc lợi dụng quyền phản đối để làm chậm lại tiến trình xử lý đơn của các chủ thể khác, làm trầm trọng hơn tình trạng quá tải của cơ quan đăng ký.

2.2.2.7. Khiếu nại quyết định liên quan đến việc xác lập quyền đối với nhãn

hiệu

Quyền khiếu nại là quyền của công dân, tổ chức đối với các quyết định của

cơ quan Nhà nước. Nội dung của quyền này đã được quy định rõ trong Luật khiếu nại, tố cáo, do vậy, trong Luật SHTT nội dung này không được nhắc lại nữa mà áp dụng theo Luật khiếu nại, tố cáo.

Các văn bản liên quan đến việc xác lập quyền đối với nhãn hiệu có thể bị khiếu nại bao gồm: Quyết định chấp nhận đơn hợp lệ, Quyết định từ chối chấp nhận đơn hợp lệ, Quyết định cấp văn bằng bảo hộ, Quyết định từ chối cấp văn bằng bảo hộ.

Những người có quyền khiếu nại các văn bản liên quan đến việc xác lập quyền đối với nhãn hiệu bao gồm: chủ đơn yêu cầu bảo hộ, bất kỳ người thứ ba nào có quyền và lợi ích liên quan trực tiếp đến nội dung các quyết định là đối tượng của văn bản khiếu nại.

Theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo thì việc khiếu nại có thể được thực hiện theo hai bước: khiếu nại lần đầu nhất thiết phải được gửi tới chính cơ quan ban hành quyết định bị khiếu nại, cụ thể là Cục SHTT. Trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của cấp giải quyết khiếu nại lần đầu thì người khiếu nại có quyền khiếu nại lên cấp quản lý phía trên trực tiếp là Bộ Khoa học và Công nghệ (khiếu nại lần hai) hoặc khởi kiện theo thủ tục tố tụng hành chính.

Về mặt lý thuyết, cơ sở pháp lý của việc khiếu nại là quyết định bị khiếu nại được ban hành trái với quy định về việc ban hành quyết định đó, do lỗi của cơ quan ban hành quyết định. Do sự đặc biệt của căn cứ giải quyết khiếu nại nên đòi hỏi thủ tục để giải quyết các khiếu nại cũng cần được quy định rất cụ thể và chi

tiết. Pháp luật của nhiều nước chẳng hạn như Liên minh Châu Âu quy định phải thành lập một Hội đồng giải quyết khiếu nại để đảm bảo nguyên tắc độc lập, công khai và minh bạch. Tuy nhiên, đây lại là một khoảng trống trong pháp luật về bảo hộ SHTT của Việt Nam. Luật chỉ quy định nguyên tắc thực hiện việc khiếu nại còn cách thức giải quyết các khiếu nại đó chưa được chỉ ra trong bất kỳ văn bản pháp luật nào. Hoạt động này hiện được tiến hành bởi Phòng thực thi và giải quyết khiếu nại thuộc Cục SHTT. Phòng này hiện có số cán bộ rất ít, do vậy khối lượng công việc được giải quyết hàng năm không đáp ứng được nhu cầu của xã hội, thêm vào đó việc không có các quy định về trình tự, nguyên tắc hoạt động của hội đồng giải quyết khiếu nại cũng khiến cho hoạt động này không đạt được hiệu quả như mong đợi.

2.2.2.8. Đăng ký quốc tế nhãn hiệu

Bất kỳ nhà sản xuất, kinh doanh nào khi tham gia thị trường đều có mong muốn không chỉ cung cấp sản phẩm, dịch vụ của mình tại thị trường nội địa mà còn phát triển ra cả các thị trường nước ngoài. Đặc tính của quyền SHTT nói chung và quyền sở hữu nhãn hiệu nói riêng là chỉ có giá trị trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà quyền được bảo hộ, do vậy, nếu muốn đạt được sự độc quyền đối với nhãn hiệu tại thị trường nước ngoài chủ sở hữu nhãn hiệu phải tiến hành đăng ký bảo hộ tại các nước có thị trường mà họ hướng tới. Để tạo thuận lợi cho chủ nhãn hiệu thực hiện việc đăng ký nhãn hiệu tại thị trường nước ngoài, các nước đã cùng nhau ký kết hai điều ước quốc tế quan trọng về đăng ký quốc tế nhãn hiệu đó là Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu (Thỏa ước Madrid) và Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu (Nghị định thư Madrid). Việt Nam hiện nay đã tham gia cả hai điều ước này. Nội dung chính của hai điều ước quốc tế về đăng ký nhãn hiệu cho phép chủ một đơn đăng ký hoặc một nhãn hiệu đã được bảo hộ tại một nước thành viên thực hiện việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại một hoặc nhiều nước thành viên khác thông qua một đơn đăng ký duy nhất nộp qua Văn phòng quốc tế về SHTT (WIPO). Văn phòng quốc tế chỉ làm nhiệm vụ nhận đơn đăng ký và chuyển cho Cơ quan đăng ký của các nước thành viên. Việc

Xem tất cả 146 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí