Chủ Thể Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Nhãn Hiệu

xác định xem nhãn hiệu đăng ký quốc tế có đáp ứng yêu cầu để được bảo hộ tại một nước thành viên hay không hoàn toàn phụ thuộc vào các quy định pháp luật nội dung của từng quốc gia cụ thể.‌‌

2.2.3. Thời hạn bảo hộ

Thời hạn bảo hộ của nhãn hiệu là 10 năm kể từ ngày nộp đơn (tính hiệu lực từ ngày cấp văn bằng bảo hộ), có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm. Quy định này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.

2.2.4. Chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ

Chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ là việc cơ quan nhà nước ra một quyết định chấm dứt hiệu lực của văn bằng bảo hộ được cấp đúng quy định pháp luật, đã có hiệu lực trước đó vì lý do căn cứ để văn bằng đó tồn tại không còn. So với Nghị định 63, quy định này có hai điểm mới cần lưu ý:

- Tên gọi được thay thế từ “đình chỉ hiệu lực Văn bằng bảo hộ” thành “chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ”. Việc chấm dứt nghĩa là không thể phục hồi lại, thuật ngữ này đúng với bản chất của sự kiện pháp lý được đề cập hơn.

- Trước đây, đơn yêu cầu đình chỉ hiệu lực Văn bằng bảo hộ được xử lý theo trình tự xử lý đơn khiếu nại, nay luật loại bỏ nội dung này. Quy định mới này hoàn toàn phù hợp với bản chất của sự việc. Khiếu nại là yêu cầu xem xét lại quyết định đã được ban hành của cơ quan nhà nước do nghi ngờ hoặc có căn cứ cho rằng quyết định đó được ban hành trái pháp luật. Trong khi đó, căn cứ để yêu cầu chấm dứt hiệu lực Văn bằng bảo hộ là do chủ sở hữu quyền từ bỏ quyền hoặc căn cứ để Văn bằng bảo hộ tồn tại không còn.

Văn bằng bảo hộ bị chấm dứt trong các trường hợp:

- Chủ văn bằng bảo hộ không gia hạn hiệu lực theo quy định;

- Chủ văn bằng bảo hộ tuyên bố từ bỏ quyền

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 146 trang tài liệu này.

- Nhãn hiệu không được chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép sử dụng trong thời hạn năm năm liên tục trước ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực mà không có lý do chính đáng, trừ trường hợp việc sử dụng được bắt đầu hoặc bắt đầu lại trước ít nhất ba tháng tính từ đến ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực;

- Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đối với nhãn hiệu tập thể không kiểm soát hoặc kiểm soát không hiệu quả việc thực hiện quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể;

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005 - 12

- Chủ Giấy chứng nhận nhãn hiệu chứng nhận vi phạm quy định sử dụng nhãn hiệu chứng nhận hoặc không kiểm soát, kiểm soát không có hiệu quản việc thực hiện quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận.

2.2.5. Hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ

Hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ là việc cơ quan nhà nước ra quyết định hủy bỏ hiệu lực của văn bằng bảo hộ đang có hiệu lực vì lý do văn bằng đó được cấp ra không phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm cấp bằng.

Về cơ bản, quy định về hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ trong Luật SHTT không khác biệt so với quy định trong Nghị định 63, cụ thể là:

Văn bằng bảo hộ bị hủy hoàn toàn hiệu lực trong trường hợp:

- Người nộp đơn đăng ký không có quyền đăng ký và không được chuyển nhượng quyền đăng ký từ người có quyền;

- Nhãn hiệu không đáp ứng các điều kiện bảo hộ tại thời điểm cấp văn bằng bảo hộ.

Văn bằng bảo hộ bị hủy bỏ một phần hiệu lực trong trường hợp phần đó không đáp ứng điều kiện bảo hộ.

Điểm mới trong nội dung này của Luật SHTT là luật có quy định thời hiệu để thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ, đối với nhãn hiệu thời hiệu này là năm năm kể từ ngày cấp văn bằng bảo hộ, trừ trường hợp văn bằng bảo hộ được cấp do sự không trung thực của người nộp đơn. Quy định này hoàn toàn phù hợp với bản chất của nhãn hiệu. Nhãn hiệu dùng để phân biệt, thời gian năm năm đủ dài để một nhãn hiệu tạo được uy tín, gây được ấn tượng nhất định trong trí nhớ của người tiêu dùng, thực hiện được đúng chức năng của nhãn hiệu. Do vậy, cũng đủ để không khiến người tiêu dùng nhầm lẫn về nguồn gốc của sản phẩm, dịch vụ. Quy định việc không thể hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu sau thời gian năm năm tính từ ngày cấp văn bằng bảo hộ thể hiện sự ghi nhận khả năng phân

biệt trên thực tế của nhãn hiệu, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nhãn hiệu tạo dựng được trong thời gian đó. Tuy nhiên, thời hiệu này không áp dụng trong trường hợp người nộp đơn không trung thực khi nộp đơn. Quy định này đúng nhưng chưa đủ vì chưa tính đến trường hợp người nộp đơn không có quyền nộp đơn nhưng cơ quan nhà nước không thể chứng minh được họ không “trung thực” chẳng hạn như người không thực sự sản xuất hoặc kinh doanh nhưng vẫn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu và đã được cấp văn bằng. Thực chất, khi người nộp đơn không có quyền nộp đơn thì dù họ có trùng thực hay không cũng không thể được chấp nhận vì trường hợp không chứng minh được họ trung thực thì lại vì lý do nhãn hiệu không thực hiện được chức năng phân biệt. Nội dung này nên quy định như sau sẽ hợp lý hơn “Thời hiệu thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ… đối với nhãn hiệu là năm năm kể từ ngày cấp văn bằng bảo hộ, trừ trường hợp văn bằng bảo hộ được cấp do người nộp đơn không có quyền nộp đơn”.‌‌

2.2.6. Sửa đổi văn bằng bảo hộ

Sửa đổi văn bằng bảo hộ là thủ tục thông thường đối với mọi loại quyền SHTT đã được cấp văn bằng bảo hộ. Lý do của việc sửa đổi có thể là vì có thiếu sót, do thay đổi khách quan, do ý muốn của chủ sở hữu về việc ghi nhận thay đổi chủ sở hữu, sửa chữa sai sót, sửa đổi (thu hẹp) phạm vi bảo hộ.

Nội dung liên quan đến sửa đổi văn bằng bảo hộ trong Luật SHTT được giữ nguyên như trong Nghị định 63.

2.3. Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

2.3.1. Chủ sở hữu nhãn hiệu

Theo Điều 121 Luật SHTT thì chủ sở hữu nhãn hiệu là tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hoặc có nhãn hiệu đã đăng ký quốc tế được cơ quan có thẩm quyền công nhận hoặc có nhãn hiệu nổi tiếng.

Quy định nêu trên đã bỏ quên đối tượng là “cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác được chuyển giao một cách hợp pháp quyền sở hữu đối với nhãn hiệu”. Đây là một thiếu sót của Luật SHTT so với Nghị định 63CP. Những đối tượng này

mặc dù không phải ngay từ đầu là chủ sở hữu của nhãn hiệu nhưng họ là chủ thể được nhận quyền sở hữu nhãn hiệu một cách hợp pháp. Khi quyền sở hữu một nhãn hiệu đã được chuyển giao cho người khác thì chủ sở hữu ban đầu mất đi tư cách chủ sở hữu. Luật không ghi nhận người nhận chuyển giao là chủ sở hữu nhưng trên thực tế họ vẫn là chủ sở hữu nhãn hiệu.

2.3.2. Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

Chủ sở hữu nhãn hiệu đang được bảo hộ có quyền sử dụng độc quyền nhãn hiệu, quyền định đoạt nhãn hiệu (bao gồm quyền chuyển nhượng quyền sở hữu, chuyển giao quyền sử dụng (lixăng), góp vốn bằng quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, để lại thừa kế, tặng, cho…), quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu thuộc quyền sở hữu của mình.

Về cơ bản nội dung quyền sở hữu công nghiệp trong Luật SHTT cũng tương tự như nội dung đã được quy định trong Nghị định 63CP. Tuy nhiên, có một số điểm mới được đưa thêm vào phản ánh sự vận động của các quan hệ xã hội như nội dung về quyền góp vốn bắng quyền sở hữu đối với nhãn hiệu…

2.3.2.1. Quyền sử dụng nhãn hiệu

Quyền sử dụng nhãn hiệu theo luật quy định bao gồm việc chủ sở hữu nhãn hiệu tự mình thực hiện việc sử dụng và việc cho phép chủ thể khác thực hiện việc sử dụng.

Nội dung của quyền sử dụng nhãn hiệu được quy định trong Luật SHTT giống như trong Nghị định 63CP, theo đó, sử dụng nhãn hiệu là việc thực hiện những hành vi:

- Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;

- Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ

- Nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.

Quy định về những hành vi được coi là sử dụng nhãn hiệu quan trọng không chỉ trong việc xác định phạm vi quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu mà còn có ý

nghĩa trong việc xác định hành vi xâm phạm quyền đồng thời là cơ sở để xác định căn cứ chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu.

Một vấn đề đặt ra liên quan đến quyền sử dụng nhãn hiệu đó là việc sử dụng nhãn hiệu là phải sử dụng chính nhãn hiệu trong văn bằng bảo hộ hoặc đăng ký quốc tế hay sử dụng những nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu này (vẫn nằm trong phạm vi bảo hộ) cũng coi là sử dụng nhãn hiệu. Trên thực tế, chủ sở hữu nhãn hiệu không phải lúc nào cũng sử dụng nhãn hiệu đúng như mẫu nhãn trong văn bằng bảo hộ hoặc đăng ký quốc tế, họ thường thêm, bớt một vài chi tiết nhỏ, thay đổi màu sắc (không làm thay đổi bản chất của nhãn hiệu)… Nếu thực tế này không được công nhận là hành vi sử dụng thì nhãn hiệu có nguy cơ bị bên thứ ba đề nghị chấm dứt hiệu lực nếu chủ sở hữu nhãn hiệu không sử dụng chính nhãn hiệu trong văn bằng bảo hộ liên tục trong thời gian 5 năm mặc dù trên thực tế họ vẫn sử dụng một nhãn hiệu tương tự. Để giải quyết thực tế này có lẽ nên coi việc sử dụng một nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu đang được bảo hộ cũng là sử dụng nhãn hiệu.

2.3.2.2. Quyền định đoạt nhãn hiệu

Luật SHTT quy định quyền định đoạt nhãn hiệu bao gồm quyền chuyển nhượng quyền sở hữu và chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu.

Theo quy định, việc định đoạt quyền đối với nhãn hiệu phải được thể hiện dưới hình thức hợp đồng và bằng văn bản; trong trường hợp việc chuyển nhượng, chuyển giao đó là một phần của hợp đồng khác thì nội dung về chuyển nhượng, chuyển giao phải được lập thành một bộ phận riêng biệt. Hợp đồng nhượng quyền sở hữu, chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu phải đăng ký với Cục SHTT thì mới được coi là có hiệu lực.

Để nhãn hiệu thực hiện đúng chức năng phân biệt thì luật cũng quy định việc chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu phải không được gây ra sự nhầm lẫn về đặc tính, nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Thực tế cho thấy, có những trường hợp nhãn hiệu được chuyển nhượng đối với một phần hàng hóa đăng ký sử dụng nhãn hiệu, phần hàng hóa tương tự còn lại vẫn được bên chuyển

nhượng sử dụng với nhãn hiệu đó hoặc chủ sở hữu nhãn hiệu sở hữu một loạt các nhãn hiệu tương tự nhau nhưng chỉ chuyển nhượng một nhãn hiệu trong số đó. Như vậy, công chúng có thể nhầm lẫn về xuất xứ, chất lượng của hàng hóa sử dụng nhãn hiệu bởi vì họ không thể phân biệt hàng hóa nào trong số hàng hóa tương tự sản xuât bởi bên chuyển nhượng hay bên nhận chuyển nhượng. Do vậy, các bên sẽ phải thỏa thuận cụ thể các điều kiện chuyển nhượng để tránh nhầm lẫn cho người tiêu dùng hoặc Cục SHTT sẽ yêu cầu chuyển nhượng toàn bộ danh mục hoặc toàn bộ các nhãn hiệu tương tự. Đối với trường hợp chuyển giao quyền sử dụng thì bên nhận chuyển giao luôn phải chỉ dẫn cho người tiêu dùng biết rõ hàng hóa gắn nhãn hiệu đó là được sản xuất trên cơ sở hợp đồng sử dụng nhãn hiệu.

Việc định đoạt quyền đối với nhãn hiệu cũng phải đảm bảo yêu cầu về mặt chủ thể như đối với trường hợp đăng ký nhãn hiệu. Theo đó, quyền đối với nhãn hiệu chỉ được chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền đăng ký nhãn hiệu đó, quyền đối với nhãn hiệu tập thể không được chuyển giao cho người không phải là thành viên của tổ chức tập thể đó.

Tuy luật SHTT không đề cập đến các quyền định đoạt khác của chủ sở hữu nhãn hiệu như đối với các loại tài sản khác nhưng về nguyên tắc, nhãn hiệu cũng là một loại tài sản, do vậy chủ sở hữu cũng có quyền đối với tài sản là nhãn hiệu như với các loại tài sản thông thường. Chủ sở hữu nhãn hiệu có thể để thừa kế, tặng, cho, dùng nhãn hiệu làm tài sản góp vốn… Quá trình phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế đã làm xuất hiện một số hoạt động thương mại mới có liên quan đến nhãn hiệu như góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu nhãn hiệu, nhượng quyền thương mại đối với nhãn hiệu… Nhu cầu góp vốn bằng quyền sở hữu đối với nhãn hiệu trong thực tế rất lớn. Đặc biệt, trong giai đoạn hội nhập kinh tế, người tiêu dùng có thể nhận biết uy tín sản phẩm thông qua nhãn hiệu bằng nhiều kênh thông tin khác nhau và việc doanh nghiệp sử dụng nhãn hiệu đã được người tiêu dùng chấp nhận cho một khởi đầu kinh doanh ngày càng trở nên phổ biến. Vì lẽ đó, việc tạo lập một hành lang pháp lý đầy đủ cho việc góp

vốn bằng quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là rất quan trọng. Nhượng quyền thương mại (theo thuật ngữ của Luật thương mại 2005) hay cấp phép đặc quyền kinh doanh (thuật ngữ sử dụng trong Nghị định 11/2005/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ) là một hệ thống kinh doanh trong đó chủ sở hữu nhãn hiệu (bên nhượng quyền) cho phép người khác (bên nhận nhượng quyền) nhân rộng hình thức kinh doanh của mình tại những địa bàn khác nhau. Bên được nhượng quyền điều hành các cửa hàng trong hệ thống kinh doanh đó vá được phép sử dụng nhãn hiệu cho hàng hóa hoặc dịch vụ, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh… của bên nhượng quyền trong việc cung cấp dịch vụ, sản xuất và hoặc quảng cáo sản phẩm theo cách thức, mô hình cụ thể tương tự như cách thức, mô hình của chính chủ sở hữu nhãn hiệu. Sử dụng quyền sở hữu đối với nhãn hiệu để góp vốn kinh doanh và nhượng quyền thương mại là hai hình thức mới, được sử dụng ngày càng nhiều trong các giao dịch thương mại hiện nay.

Do nhãn hiệu là một loại đối tượng đặc biệt, khác với các hàng hóa thông thường khác nên quyền chủ sở hữu nhãn hiệu cũng có những đặc thù nhất định. Quyền định đoạt của chủ sở hữu nhãn hiệu không phải là quyền định đoạt tuyệt đối mà có những hạn chế nhất định nhằm đảm bảo nhãn hiệu thực hiện đúng chức năng phân biệt.

2.3.2.3. Quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu

Quyền này được xác lập dựa vào chức năng cơ bản của nhãn hiệu – chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của người khác. Do vậy, việc bảo hộ nhãn hiệu không những chỉ cấm việc sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa/dịch vụ trùng hoặc tương tự mà còn cấm việc sử dụng nhãn hiệu tương tự cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự hoặc có liên quan… nếu việc sử dụng đó làm cho người tiêu dùng bị nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ.

Quyền ngăn cấm chủ thể khác sử dụng nhãn hiệu luôn đi liền với quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý những người có hành vi vi phạm. Không chỉ chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu

thuộc sở hữu của mình mà người được chuyển giao quyền sử dụng cũng có quyền này đối với nhãn hiệu mình được chuyển giao căn cứ vào phạm vi sử dụng nhãn hiệu xác định trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng.

2.3.3. Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

Chủ sở hữu nhãn hiệu có độc quyền sử dụng nhãn hiệu. Tuy nhiên, với mục đích bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của không chỉ chủ sở hữu quyền mà còn của công chúng, những người kinh doanh trung thực và của toàn xã hội pháp luật có những quy định liên quan đến việc giới hạn quyền đối với nhãn hiệu.

So với các văn bản luật trước đây, Luật SHTT quy định về vấn đề giới hạn quyền đối với nhãn hiệu chặt chẽ, rõ ràng và đầy đủ nhất.

Tại Điều 7 Luật SHTT vấn đề giới hạn quyền SHTT được quy định thành nguyên tắc chung cho mọi đối tượng SHTT, theo đó:

- Quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu chỉ giới hạn trong phạm vi và thời hạn bảo hộ;

- Việc thực hiện quyền SHTT đối với nhãn hiệu không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhan khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan;

- Trong trường hợp nhằm bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, xã hội… Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ quyền SHTT thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền SHTT phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những điều kiện phù hợp.

Giới hạn quyền đối với nhãn hiệu được thể hiện thông qua các hành vi sử dụng nhãn hiệu mà không bị coi là hành vi xâm phạm được quy định tại Điều 125 Luật SHTT.

- Sử dụng một cách trung thực tên người, dấu hiệu mô tả chủng loại, số lượng, chất lượng, công dụng, giá trị, nguồn gốc địa lý và các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ;

Xem tất cả 146 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí