Quyền Độc Quyền Sử Dụng Kiểu Dáng Công Nghiệp

Có thể nói, nếu như luật bản quyền trao cho tác giả quyền ngăn chặn việc sao chép một tác phẩm thì luật về kiểu dáng công nghiệp trao cho chủ sở hữu kiểu dáng đó quyền độc quyền đối với KDCN đã đăng ký, ngăn chặn việc khai thác trái phép KDCN đó. Theo pháp luật của hầu hết các quốc gia, quyền độc quyền đối với KDCN thường bao gồm hai quyền năng chính, đó là quyền độc quyền sử dụng KDCN và quyền định đoạt KDCN...

2.3.1.1. Quyền độc quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp

Khái niệm độc quyền sử dụng, khai thác KDCN theo pháp luật hầu hết các nước trên thế giới được hiểu là việc chủ sở hữu KDCN thực hiện các hành vi sản xuất, lưu thông, bán, nhập khẩu, cho thuê hoặc bất cứ hành vi nào khác nhằm khai thác sản phẩm mang kiểu dáng vì mục đích công nghiệp hay thương mại, cùng với đó có quyền ngăn cấm những hành vi cản trở việc sử dụng như sao chép, bắt chước trái phép kiểu dáng nhằm mục đích tương tự. Theo pháp luật Việt Nam, độc quyền sử dụng của chủ sở hữu KDCN được quy định tại Điều 124, 125 Luật SHTT 2005, nhìn chung là tương đồng và phù hợp với pháp luật quốc tế.

Theo điểm a, điểm b, khoản 1 Điều 123 Luật SHTT 2005 quy định, chủ sở hữu KDCN có quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, đồng thời cũng có quyền ngăn cấm người khác sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp đó. KDCN cũng là một trong những đối tượng sở hữu công nghiệp, vì vậy đương nhiên chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp cũng có quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng đồng thời ngăn cấm người khác sử dụng các KDCN mà mình sở hữu để bảo vệ các quyền và lợi ích của mình.

* Quyền sử dụng KDCN

Có thể thấy, sử dụng, đưa KDCN vào khai thác để thu được các lợi ích từ chúng mang lại có thể được xem như một trong những quyền năng quan trọng nhất của chủ sở hữu. Vì vậy, trên thực tế có nhiều cách thức khai thác khác nhau. Dựa vào đó, pháp luật đưa ra những hành vi sử dụng chủ yếu đối với KDCN.

Để tạo ra KDCN, chủ sở hữu phải bỏ ra nhiều chi phí do vậy thông qua quá trình sử dụng KDCN đó, chủ sở hữu sẽ thu hồi được các chi phí đồng thời làm tăng lợi ích từ việc sử dụng KDCN.

Theo quy định tại khoản 2 điều 124 Luật SHTT 2005, chủ sở hữu của kiểu dáng công nghiệp có quyền sử dụng đối với kiểu dáng công nghiệp như sau:

- Sản xuất sản phẩm có hình dáng bên ngoài là KDCN được bảo hộ;

- Lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm có KDCN được bảo hộ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

- Nhập khẩu sản phẩm có hình dáng bên ngoài là KDCN được bảo hộ.

Mục đích của việc yêu cầu bảo hộ KDCN là nhằm chống lại những hành vi vi phạm pháp luật về bảo hộ như cố tình sản xuất sản phẩm mang kiểu dáng đã được bảo hộ để bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu KDCN. Vì vậy, khi đã được cấp văn bằng bảo hộ thì chủ sở hữu văn bằng có quyền sản xuẩt các sản phẩm cũng như lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm mang KDCN được bảo hộ đó để phục vụ lợi ích cho mình. Như vậy, theo quy định nói trên, chủ sở hữu của kiểu dáng công nghiệp được thực hiện tất cả các hoạt động liên quan đến việc sử dụng kiểu dáng công nghiệp mà mình sở hữu để khai thác tối đa lợi nhuận trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp theo pháp luật Việt Nam - 9

* Quyền cho phép người khác sử dụng KDCN

Chủ sở hữu có thể tự mình khai thác và sử dụng KDCN hoặc thông qua ủy quyền cho người khác, cho phép người khác sử dụng KDCN của mình. Người khác muốn sử dụng KDCN đó thì phải có sự đồng ý, cho phép của chủ sở hữu. Như vậy, chỉ có chủ sở hữu KDCN mới có độc quyền sử dụng KDCN, là người duy nhất có quyền khai thác tính năng, công dụng và những giá trị, lợi ích vật chất từ KDCN đó. Các trường hợp chủ sở hữu cho phép người khác sử dụng đối tượng quyền SHCN đối với KDCN đó là: chuyển nhượng quyền SHCN đối với KDCN và

chuyển giao quyền sử dụng KDCN.

- Chuyển nhượng quyền SHCN đối với KDCN: là việc chủ sở hữu KDCN chuyển giao quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác.

- Chuyển giao quyền sử dụng KDCN: là việc chủ sở hữu KDCN chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền sử dụng của mình cho chủ thể khác. Việc chuyển giao quyền sử dụng KDCN được thực hiện thông qua hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng KDCN, gọi là hợp đồng Li – xăng.

* Quyền ngăn cấm người khác sử dụng KDCN

Như đã nói ở trên, việc độc quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp cũng bao hàm cả ý nghĩa chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp sẽ có quyền ngăn cấm người khác sử dụng kiểu dáng công nghiệp đó.

Theo khoản 1 Điều 125 Luật SHTT 2005, khi người khác sử dụng KDCN đã được bảo hộ mà không được sự đồng ý, cho phép của chủ sở hữu thì chủ sở hữu có quyền thực hiện việc ngăn cấm người đó sử dụng KDCN. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp đều có thể thực hiện quyền này, khoản 2 Điều 125 Luật SHTT 2005 qui định trường hợp chủ sở hữu không có quyền ngăn cấm người khác thực hiện hành vi sau:

- Sử dụng kiểu dáng công nghiệp nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc mục đích phi thương mại hoặc nhằm mục đích đánh giá, phân tích, nghiên cứu, giảng dạy, thử nghiệm, sản xuất thử hoặc thu thập thông tin để thực hiện thủ tục xin phép sản xuất, nhập khẩu, lưu hành sản phẩm.

Có thể thấy, việc bảo hộ KDCN nhằm mục đích chủ yếu là để bảo vệ cho người có quyền sở hữu, sử dụng KDCN trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi vậy, các hoạt động sử dụng kiểu dáng công nghiệp mang tính phi thương mại hoặc các hoạt động đó không thực hiện vì mục đích tạo ra lợi nhuận cho chủ thể thực hiện sẽ không bị cấm sử dụng.

- Lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ trường hợp sản phẩm không phải do chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra thị trường nước ngoài.

Việc lưu thông hàng hoá mang KDCN được bảo hộ, đưa ra thị trường để đến tay khách hàng là một mục tiêu vô cùng quan trọng của chủ thể có quyền sở hữu, sử dụng KDCN, chính vì vậy việc lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm mang KDCN được bảo hộ cũng không thể bị cấm. Tuy nhiên, pháp luật đã quy định rõ, việc lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm mang KDCN được bảo hộ phải do chính chủ sở hữu hoặc người được phép của chủ sở

hữu nhãn hiệu của hàng hoá mang KDCN đó đưa ra thị trường nước ngoài mới được coi là hợp pháp, mọi hoạt động do các chủ thể khác thực hiện đều bị cấm.

- Sử dụng kiểu dáng công nghiệp chỉ nhằm mục đích duy trì hoạt động của các phương tiện vận tải của nước ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm trong lãnh thổ Việt Nam.

- Sử dụng kiểu dáng công nghiệp do người có quyền sử dụng trước thực hiện.

- Sử dụng KDCN nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc mục đích phi thương mại hoặc nhằm mục đích đánh giá, phân tích, nghiên cứu, giảng dạy, thử nghiệm, sản xuất thử hoặc thu thập thông tin để thực hiện thủ tục xin phép sản xuất, nhập khẩu, lưu hành sản phẩm;

- Sử dụng KDCN nhằm mục đích duy trì hoạt động của phương tiện vận tải của nước ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm trong lãnh thổ Việt Nam.

- Sử dụng KDCN do người có quyền sử dụng trước thực hiện.

Theo quy định tại Điều 134 Luật SHTT 2005 về quyền sử dụng trước đối với sáng chế, KDCN, trong trường hợp trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên (nếu có) của đơn đăng ký KDCN mà có người đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sử dụng KDCN trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một cách độc lập thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp, người đó có quyền tiếp tục sử dụng KDCN trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu KDCN được bảo hộ. Việc thực hiện quyền của người sử dụng trước KDCN trong trường hợp này sẽ không bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu KDCN.

Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 134 Luật SHTT 2005, người có quyền sử dụng trước KDCN không được phép chuyển giao quyền đó cho người khác, trừ trường hợp chuyển giao quyền đó kèm theo việc chuyển giao cơ sở sản xuất, kinh doanh, nơi sử dụng hoặc chuẩn bị sử dụng KDCN. Người có quyền sử dụng trước không được phép mở rộng phạm vi, khối lượng sử dụng nếu không được chủ sở hữu KDCN cho phép. Như vậy, quy định này bảo hộ tối đa cho chủ sở hữu KDCN đã được đăng ký.

Bên cạnh đó, liên quan đến việc độc quyền sử dụng của chủ sở hữu KDCN cũng cần xét đến một vấn đề đó là “nhập khẩu song song”. Nhập khẩu song song liên quan đến lĩnh vực KDCN được hiểu là việc một nhà nhập khẩu, không có bất cứ sự liên quan nào đối với chủ sở hữu KDCN, tiến hành nhập khẩu một hàng hoá nhất định chứa KDCN đã được bảo hộ của chủ sở hữu KDCN, vào một thị trường mà ở thị trường này hàng hoá chứa đựng KDCN nói trên đã được cung cấp bởi một nhà phân phối được cấp li – xăng, hoặc được chỉ định bởi chính chủ sở hữu KDCN.

Như vậy, một loại hàng hoá chứa đựng cùng một đối tượng SHCN sẽ được ít nhất hai nhà cung cấp khác nhau cung cấp trên cùng một thị trường, và chỉ có một trong hai nhà cung cấp đó có được sự đồng ý của chủ sở hữu KDCN về việc thực hiện các hành vi thương mại đối với KDCN đó. Vấn đề nhập khẩu song song đưa đến một sự mâu thuẫn như sau: Nếu có hành vi nhập khẩu song song thì sẽ mang lại một lợi ích rất thiết thực cho thị trường, đó là đẩy mạnh sự cạnh tranh cao độ trong hoạt động thương mại. Chấp nhận nhập khẩu song song có nghĩa là khuyến khích tự do cạnh tranh, chính vì vậy mà việc cho phép hay không cho phép nhập khẩu song song sẽ dẫn đến khả năng bắt buộc phải lựa chọn giữa việc bảo vệ nguyên tắc tự do cạnh tranh và việc bảo hộ quyền SHCN.

Hiểu một cách gián tiếp, theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị định số 99/2013/NĐ – CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp thay thế cho Nghị định số 97/2010/NĐ – CP, hàng nhập khẩu song song sẽ không bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Mặt khác, theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 10 Thông tư số 37/2011/TT – BKHCN Hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 97/2010/NĐ – CP ngày 21/9/2010 (hiện nay đã được thay thế bằng Nghị định số 99/2013/NĐ – CP) quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, hành vi “nhập khẩu song song” là việc tổ chức, cá nhân nhập khẩu sản phẩm do chính chủ sở hữu hoặc tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền sử dụng, kể cả chuyển giao quyền sử dụng theo quyết định bắt buộc, người có quyền sử dụng trước đối tượng sở hữu công nghiệp đã đưa ra thị trường nước ngoài, mặc dù không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp.

Một số ví dụ về hành vi nhập khẩu song song theo ví dụ đưa ra tại điều 10 Thông tư số 37/2011/TT - BKHCN:

- Công ty A là chủ Bằng độc quyền sáng chế cho sản phẩm X đang được bảo hộ tại Việt Nam. Công ty A ủy quyền cho đại lý của mình là Công ty B tại Việt Nam được phép nhập khẩu và phân phối độc quyền sản phẩm X tại Việt Nam. Công ty C mua và nhập khẩu vào Việt Nam sản phẩm X do Công ty A sản xuất và bán ở thị trường nước ngoài, mặc dù không được sự đồng ý của Công ty A và Công ty B.

- Công ty A là chủ Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp Y đang được bảo hộ cho kiểu dáng sản phẩm G tại Việt Nam. Công ty A cấp li-xăng cho Công ty B để sản xuất sản phẩm G mang kiểu dáng công nghiệp Y tại Việt Nam, đồng thời cấp li-xăng cho Công ty C để sản xuất sản phẩm G mang kiểu dáng công nghiệp Y tại nước khác. Công ty D mua và nhập khẩu vào Việt Nam sản phẩm G mang kiểu dáng công nghiệp Y do Công ty C sản xuất và bán ở thị trường nước ngoài, mặc dù không được sự đồng ý của Công ty A, Công ty B và Công ty C.

- Công ty A là chủ nhãn hiệu Z được bảo hộ cho sản phẩm T tại nước ngoài. Công ty A thành lập chi nhánh là Công ty B tại Việt Nam và đồng ý cho Công ty B nộp đơn đăng ký và đứng tên chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu Z cho sản phẩm T tại Việt Nam. Công ty C mua và nhập khẩu vào Việt Nam sản phẩm T mang nhãn hiệu Z do Công ty A sản xuất và bán ở thị trường nước ngoài, mặc dù không được sự đồng ý của Công ty A và Công ty B.

2.3.1.2. Quyền định đoạt kiểu dáng công nghiệp

Quyền SHCN nói chung và quyền SHCN đối với KDCN nói riêng là một loại quyền tài sản. Do vậy, pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật thế giới ghi nhận quyền định đoạt KDCN của chủ sở hữu. Theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 123 Luật SHTT 2005 quy định, chủ sở hữu KDCN có quyền định đoạt đối với KDCN mà mình sở hữu. Theo đó, quyền định đoạt của chủ sở hữu KDCN bao gồm: quyền chuyển nhượng quyền sở hữu KDCN, quyền chuyển giao quyền sử dụng KDCN, từ bỏ quyền sở hữu KDCN, dịch chuyển quyền sở hữu hay để lại thừa kế quyền sở hữu KDCN.

* Quyền chuyển nhượng quyền sở hữu KDCN

Theo khoản 1 Điều 138 Luật SHTT 2005, chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp nói chung hoặc KDCN nói riêng được hiểu là việc chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp chuyển giao quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác. Khoản 2 Điều 138 cũng quy định, việc chuyển nhượng này phải thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản hay còn gọi là hợp đồng chuyển nhượng quyền SHCN. Kể từ thời điểm hợp đồng chuyển nhượng được cơ quan có thẩm quyền quốc gia ghi nhận, bên được chuyển nhượng sẽ có đầy đủ, toàn bộ các quyền của chủ sở hữu đối với KDCN đồng thời tiếp nhận các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu phát sinh trên cơ sở các giao dịch với người thứ ba. Nếu quyền sở hữu thuộc về chủ sở hữu chung thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ được chuyển giao phần thuộc về mình khi được các chủ sở hữu còn lại đồng ý hoặc tuy có một hoặc một số chủ sở hữu chung còn lại không đồng ý nhưng họ cũng không tiếp nhận phần quyền cần chuyển giao và việc không đồng ý không có lý do chính đáng. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 139 Luật SHTT 2005, chủ sở hữu chỉ được chuyển nhượng quyền sở hữu KDCN trong phạm vi được bảo hộ.

* Quyền chuyển giao quyền sử dụng KDCN

Theo quy định tại điều 141 Luật SHTT 2005, việc chuyển quyền sử dụng KDCN được hiểu là việc chủ sở hữu KDCN cho phép tổ chức, cá nhân sử dụng KDCN thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình. Việc chuyển quyền sử dụng KDCN cũng sẽ phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản. Như vậy, việc chuyển giao quyền sử dụng KDCN không chuyển giao quyền sở hữu KDCN đó, do đó, người được chuyển giao không có quyền ký kết hợp đồng thứ cấp với bên thứ ba, trừ khi được bên chuyển giao cho phép (theo quy định tại khoản 3 Điều 142 Luật SHTT 2005).

Theo quy định tại điều 143 Luật SHTT 2005, chuyển giao quyền sử dụng KDCN (hay còn gọi là li-xăng) sẽ được thực hiện thông qua Hợp đồng li-xăng theo hai cách thức chính:

- Thứ nhất, chủ sở hữu giao toàn bộ quyền sử dụng cho người khác, người được chuyển giao trở thành độc quyền sử dụng KDCN. Trong thời hạn hợp đồng được kí

kết, chủ sở hữu không được chuyển giao KDCN cho bất kì bên thứ ba nào khác và cũng không được sử dụng KDCN đó cho đến khi hết hạn hợp đồng (trừ phi được phép của bên được chuyển quyền). Đây được gọi là Hợp đồng li-xăng độc quyền.

- Thứ hai, chủ sở hữu mặc dù đã kí kết hợp đồng chuyển quyền sử dụng cho người khác nhưng vẫn có quyền sử dụng KDCN đó và vẫn được quyền chuyển tiếp quyền sử dụng KDCN đó cho bất kỳ bên thứ ba nào khác. Đây được gọi là Hợp đồng li-xăng không độc quyền.

* Quyền dịch chuyển quyền sở hữu KDCN

Chủ sở hữu có thể thực hiện quyền định đoạt đối với KDCN thông qua việc dịch chuyển quyền sở hữu theo sự sáp nhập, hợp nhất hay chia tách pháp nhân…

* Quyền từ bỏ hay để lại thừa kế quyền sở hữu KDCN

KDCN cũng là một loại tài sản vô hình, vì vậy, chủ sở hữu hoàn toàn có quyền từ bỏ quyền sở hữu đối với KDCN hay để lại thừa kế cho người khác sau khi chết (nếu KDCN vẫn còn trong thời hạn bảo hộ).

Tuy nhiên, chủ sở hữu không được từ bỏ quyền SHCN đối với đối tượng thuộc phạm vi hợp đồng sử dụng đối tượng SHCN đang còn trong thời hạn hiệu lực mà bên chuyển quyền không đồng ý chấm dứt hợp đồng đó trước thời hạn.

2.3.1.3. Quyền tạm thời đối với KDCN

Quyền tạm thời đối với đối tượng SHCN là quyền của người đăng kí bảo hộ đối với các đối tượng đó được phát sinh từ ngày đơn đăng kí bảo hộ được nộp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc được công bố công khai đến ngày được cấp bằng độc quyền đối với các đối tượng đó. Pháp luật SHTT ghi nhận quyền tạm thời này cho KDCN là KDCN mang những đặc điểm về tính sáng tạo, chúng không nảy sinh một cách hiển nhiên và không phải dễ dàng để có được; mặt khác, do quy định của pháp luật về quy trình xác lập quyền sở hữu đối với KDCN đòi hỏi các nội dung trong đơn đăng kí phải cụ thể, rõ ràng đến mức một người có trình độ trung bình trong lĩnh vực tương ứng có thể áp dụng thành công, do đó, sau khi đơn đăng kí nêu trên được nộp hoặc đã được công khai thì có thể có rất nhiều người đã bắt tay vào sử dụng mà không xin phép hay trả thù lao cho chủ sở hữu hợp pháp. Pháp luật SHTT quy định nhằm bảo vệ triệt để quyền của chủ sở hữu (Điều 131 Luật SHTT 2005).

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí