lao, xong quyền sở hữu thuộc về nhà nước. Vì vậy, không phát huy được sức sáng tạo của cá nhân.
Từ năm 1989 đến nay, kinh tế thị trường bắt đầu hình thành, vai trò của các quan hệ sở hữu trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng và trở thành một bộ phận của lực lượng sản xuất. Pháp luật sở hữu trí tuệ đã được pháp điển hóa trong Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN ban hành ngày 28/1/1989. Khi Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN ra đời thì nhà nước thừa nhận quan điểm cho rằng: Các sản phẩm trí tuệ do con người sáng tạo ra và chính con người có quyền sở hữu chúng. Trong văn bản này lần đầu tiên thuật ngữ “quyền sở hữu công nghiệp” được sử dụng về mặt pháp lý nhưng chỉ quy định có năm đối tượng chủ yếu, quan trọng nhất của quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ, vẫn chưa có quy định nào về BMKD.
Khi Bộ luật dân sự 1995 được ban hành, pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã thể hiện tư duy mới của nhà nước ta, thuật ngữ “quyền sở hữu trí tuệ” đã được sử dụng với nội hàm gồm quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp, nội dung trong đó cũng đã thể hiện được sự phù hợp của pháp luật nước ta với pháp luật quốc tế trong lĩnh vực này. Theo Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kì, Việt Nam sẽ phải ban hành luật về bảo vệ BMKD chậm nhất là 18 tháng sau khi Hiệp định có hiệu lực. Đến 3/10/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2000/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp. Các quy định của Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD và các đối tượng nói trên dựa trên các tiêu chí mà Công ước Paris đặt ra. Như vậy, phải chờ đến khi Chính phủ ban hành Nghị định số 54/2000/ NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn xuất sứ, tên thương mại và bảo vệ quyền chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở
hữu công nghiệp thì BMKD mới chính thức được bảo hộ với tư cách là một đối tượng của quyền SHCN. Nội dung của Nghị định này chính là sự cụ thể hóa quy định tại Điều 780 Bộ luật dân sự 1995. Các đối tượng mà Nghị định quy định chính là chi tiết của phần mở rộng - “các đối tượng khác” trong Điều 780 nói trên, trong đó có BMKD.
Đến tháng 5 năm 2005, Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời, đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về sở hữu trí tuệ nói riêng. Trên cơ sở kế thừa phát triển Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật này chỉ quy định có bốn điều về sở hữu trí tuệ một mặt thể hiện bản chất của quyền sở hữu trí tuệ cũng là một loại quyền dân sự, chịu sự điều chỉnh của những nguyên tắc và phương pháp điều chỉnh của ngành luật dân sự; mặt khác bốn điều luật đó đóng vai trò hướng dẫn chung và phần chi tiết còn lại để cho một văn bản khác thể hiện sự pháp điển hóa về sở hữu trí tuệ quy định đó là Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
Ngày 29/11/2005, Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội khóa XI, kì họp thứ 8 thông qua, có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. Đây là lần đầu tiên Việt Nam ban hành một đạo luật riêng về sở hữu trí tuệ. Luật Sở hữu trí tuệ điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội hiện đại và là điều kiện thúc đẩy phát triển các quan hệ này trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Việc coi Luật sở hữu trí tuệ là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã đánh dấu một bước tiến lớn trong khoa học pháp lý nước ta. Tại đây các quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD đã tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh: từ các quy định về điều kiện bảo hộ BMKD, xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD, các yếu tố của quan hệ pháp luật về sở hữu công nghiệp đối với BMKD đến các quy định về chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD, đại diện sở hữu công nghiệp và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD. Các quy định này đã thể hiện được sự quan tâm của nhà nước ta đối với đối tượng sở hữu công nghiệp đặc biệt này đồng thời chúng cũng thể hiện được sự phù hợp của pháp luật của nước ta với pháp luật quốc tế về việc bảo hộ BMKD.
Sau khi Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành, Chính phủ cũng đã có những văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành cho luật này. Ngày 22 tháng 9 năm 2006, đã có ba nghị định ra đời, đó là các nghị định sau:
Nghị định số 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về việc xác lập, chủ thể, nội dung, giới hạn quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, đại diện quyền sở hữu công nghiệp và các biện pháp thúc đẩy hoạt động sở hữu công nghiệp.
Nghị định số 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, gồm việc xác định hành vi, tính chất và mức độ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, xác định thiệt hại, yêu cầu và giải quyết yêu cầu xử lý xâm phạm, xử lý xâm phạm bằng biện pháp hành chính, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ và quy định quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 2
- Khái Niệm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Bí Mật Kinh
- Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Pháp Luật Về Bảo Hộ Quyền Shcn Đối Với Bí Mật Kinh Doanh Trên Thế Giới Và Việt Nam
- Ý Nghĩa Thực Tiễn Của Việc Bảo Hộ Bí Mật Kinh Doanh
- Xác Lập Và Chấm Dứt Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Bmkd
- Chấm Dứt Quyền Shcn Đối Với Bmkd Do Các Trường Hợp Khác
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Nghị định số 106/2006/NĐ-CP quy định các hành vi vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp, hình thức mức phạt, thẩm quyền, thủ tục xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả.
Ngoài ra, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp.
Ngày 19 tháng 6 năm 2009, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật số 36/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Ngày 29 tháng 6 năm 2009, Chủ tịch nước đã có Lệnh số 12/2009/L - CTN công bố Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ. Luật này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2010. Như vậy việc sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để các tổ chức, cá nhân tiếp cận được hệ thống pháp luật hoàn thiện, hiện đại, phù hợp với thực tiễn; tăng cường năng lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý, thực thi, các cơ quan hỗ trợ thực thi, góp phần tạo ra chuyển biến tích cực, có hiệu quả của hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong đó có bảo hộ BMKD tại quốc gia và hội nhập quốc tế.
1.3. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh
Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD là việc làm mang tính tất yếu khách quan, việc bảo hộ đó có ý nghĩa quan trọng đối với người kinh doanh, với nhà nước và xã hội. Chính vì vậy mà ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều bảo hộ đối với BMKD và đã có những điều ước quốc tế quy định về BMKD.
1.3.1. Bảo hộ BMKD khuyến khích hoạt động nghiên cứu và sáng tạo
Ngay từ thời xa xưa con người đã biết giữ các bí quyết sản xuất kinh doanh của mình để tạo ra ưu thế trong kinh doanh, các ưu thế này còn tồn tại ngày nào là phụ thuộc vào việc các bí mật đó có được giữ an toàn nữa hay không. Chủ sở hữu các bí mật phải tự tiến hành các biện pháp để bảo mật cho bí mật của mình. Tuy nhiên khi công việc bảo mật lại được sự hỗ trợ của nhà nước bằng công cụ pháp luật thì các chủ sở hữu sẽ yên tâm hơn, từ đó họ ra
sức tìm tòi, nghiên cứu sáng tạo để có những bí quyết mới, có tính ưu việt hơn, mang lại lợi ích lớn hơn trong kinh doanh. Chính những quy định của pháp luật nhằm bảo hộ đối tượng BMKD là yếu tố quan trọng khuyến khích hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của con người vì lý do đơn giản là các sản phẩm trí tuệ mà họ tạo ra một mặt đem lại lợi ích cho hoạt động kinh doanh do có lợi thế hơn các đối thủ khác, mặt khác những lợi thế đó, lợi ích đó lại được kéo dài do được bảo vệ bởi bản thân họ và các quy định của pháp luật.
Bản chất của BMKD là thế độc quyền vĩnh viễn mà nó mang lại. Tính chất “độc quyền” có sức hấp dẫn lớn với các nhà kinh doanh, ai cũng muốn có thế độc quyền đó. Khi được các quy định của pháp luật hỗ trợ một cách đắc lực để bảo vệ cho thế độc quyền của mình thì các nhà kinh doanh yên tâm và ra sức đầu tư thời gian, tiền bạc vào hoạt động nghiên cứu, sáng tạo để tìm ra một sản phẩm mới, một quy trình mới có thể chiếm lĩnh thị trường vừa đem lại nguồn lợi lớn vừa có tính chất lâu dài, có khi vô thời hạn cho mình.
Đối với sự phát triển xã hội nói chung, việc nghiên cứu, sáng tạo nói trên của các chủ thể còn có ý nghĩa trong việc nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật của nhân loại.
Mặt khác nếu các BMKD chủ sở hữu khó khăn mới có được, có khi mất nhiều thời gian tiền của, công sức cho việc nghiên cứu, sáng tạo ra chúng mà không được nhà nước bảo hộ thì sẽ không còn ai có ý định sáng tạo nữa, khi đó sẽ không có các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo tích cực và xã hội sẽ chậm phát triển.
Chính vì vậy, vì lợi ích của các nhà kinh doanh, của người tiêu dùng, của toàn xã hội, pháp luật hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan tâm bảo hộ BMKD.
1.3.2 Bảo hộ BMKD có ý nghĩa trong việc chống cạnh tranh không lành mạnh
Trong hoạt động kinh doanh – thương mại, lợi nhuận là vấn đề hàng đầu mà các thương nhân quan tâm. Nhưng trong cơ chế thị trường, với sự cạnh tranh khốc liệt thì mục tiêu lợi nhuận lại có vai trò càng quan trọng với các nhà kinh doanh, nhiều khi vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận, vì lợi ích kinh tế là trên hết, có những nhà kinh doanh bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích của mình. Một trong những biểu hiện của việc làm kinh tế tiêu cực, kiếm lợi nhuận bằng mọi giá đó là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Đây là hậu quả tất yếu, là mặt trái của nền kinh tế thị trường, cho nên vai trò, nhiệm vụ của nhà nước là phải làm sao vừa phát triển được kinh tế, vừa quan tâm bảo vệ cho lợi ích của nhà kinh doanh lại vừa hạn chế được các tiêu cực, các mặt trái của nền kinh tế thị trường, tạo ra môi trường an toàn, thuận lợi cho sự phát triển bền vững. Một trong các biện pháp để đạt được điều đó chính là bảo hộ cho quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD.
Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp việc thực hiện các hành vi xâm phạm chủ yếu với mục đích là để lợi dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh… đang được bảo hộ hợp pháp và có uy tín trên thị trường để thu lợi bất hợp pháp, gây ảnh hưởng, thiệt hại cho đối thủ của mình, và đó cũng có bản chất là cạnh tranh không lành mạnh. Đối với BMKD các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với nguy cơ bị đánh cắp các thông tin bí mật trong kinh doanh, các đối thủ cũng luôn tìm cách lôi kéo nhân viên hay người lao động của các doanh nghiệp khác nhằm thu thập BMKD họ có được khi làm việc cho doanh nghiệp đó. Những điều này là mối đe dọa cho sự an toàn của các bí quyết kinh doanh. Việc quy định những hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD và các quy định khác về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD của pháp luật là một biện
pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền cho các chủ sở hữu BMKD và cũng có ý nghĩa trong việc chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Như vậy, rõ ràng là pháp luật về bảo hộ BMKD đã tạo ra sự ổn định cho môi trường kinh doanh, duy trì các mối quan hệ tốt đẹp trong kinh doanh bằng việc quy định nghĩa vụ phải tuân thủ các nguyên tắc cạnh tranh công bằng và trung thực trong kinh doanh cho các thương nhân, ngay cả khi các nguyên tắc này không được xác lập trong hợp đồng.
Việc chống cạnh tranh không lành mạnh ở nước ta đã được nhà nước quan tâm và ban hành một văn bản riêng về vấn đề này, đó là Luật cạnh tranh 2004, và Luật Sở hữu trí tuệ 2005 cũng có quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong đối với lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Pháp luật vừa quy định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD trong Luật Sở hữu trí tuệ lại vừa quy định hành vi cạnh tranh không lành mạnh như trên là bởi vì thực chất hành vi xâm phạm quyền và hành vi cạnh tranh không lành mạnh có mối quan hệ tương quan nhất định với nhau, hỗ trợ nhau. Việc bảo vệ cái này sẽ có ý nghĩa trong việc bảo vệ cái kia. Đây chính là hai phương thức kiện mà tùy từng trường hợp xâm phạm, gây thiệt hại cụ thể mà người bị thiệt hại có thể lựa chọn một trong hai để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình một cách có hiệu quả nhất. Khi người vi phạm không thực hiện hành vi giống như hành vi xâm phạm mà vẫn gây hại cho chủ thể có quyền thì chúng ta phải có một công cụ hỗ trợ đó là hành vi cạnh tranh không lành mạnh để bù đắp khoảng trống. Mục đích của việc kiện về hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng là buộc chấm dứt hành vi vi phạm và đòi bồi thường thiệt hại. Khi khởi kiện người vi phạm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chủ thể bị vi phạm vẫn có thể bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của mình như khi khởi kiện về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Trong các trường hợp
mà các chủ thể vi phạm quyền của nhau mà không có mối quan hệ gì chứng minh là họ có sự cạnh tranh với nhau thì không thể chọn hình thức kiện theo hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà phải chọn phương thức về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với BMKD.
Tuy nhiên, hai văn bản này có những quy định còn chưa thống nhất: Điều 130 Luật SHTT đã không liệt kê hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới BMKD, trong khi đó khoản 2 Điều 39 của Luật cạnh tranh đã xác định hành vi xâm phạm BMKD là một trong những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, và Luật cạnh tranh lại không liệt kê được đầy đủ các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh. Do vậy, các quy định về bảo hộ bí mật kinh doanh trong Luật SHTT 2005 chính là sự bổ sung cho những khuyết thiếu trên của Luật cạnh tranh góp phần chống cạnh tranh không lành mạnh một cách hiệu quả hơn.
1.3.3 Bảo vệ quyền dân sự cơ bản của con người
Cơ sở lý luận cho pháp luật về sở hữu trí tuệ là quyền sở hữu của con người. Theo triết học Mác – Lênin, nhờ có lao động mà con người tạo ra của cải vật chất, cũng qua quá trình lao động thì trình độ của con người ngày càng được nâng cao làm cho xã hội phát triển tuy có những bước thăng trầm nhưng luôn theo chiều hướng đi lên, đó là quy luật tất yếu của sự phát triển về tự nhiên và xã hội. Do đó, cơ sở của quyền sở hữu là lao động. Bất kỳ ai cũng có quyền sở hữu đối với thành quả lao động do mình làm ra hoặc do mình đầu tư công sức, tài sản, trí tuệ mà có. Đây chính là quyền dân sự cơ bản của con người. Lúc đầu, người ta chỉ công nhận quyền sở hữu là quyền đối với tài sản hữu hình còn các thành quả lao động từ hoạt động trí tuệ thì mãi sau này cùng với sự phát triển của xã hội và khoa học – công nghệ, mới được coi là một loại tài sản mà con người có thể sở hữu chúng. Tuy ra đời sau nhưng những