Nghĩa Vụ Của Chủ Sở Hữu Kiểu Dáng Công Nghiệp

Quyền tạm thời này chỉ pháp sinh trên các điều kiện cụ thể:

- Có việc sử dụng KDCN (được tiến hành sau thời điểm đơn đăng kí bảo hộ được công khai) nêu trong đơn đăng kí đã nộp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Có thông báo bằng văn bản của người nộp đơn cho người sử dụng biết về việc nộp đơn và về việc đơn đã được công bố đối với KDCN.

- Quyền tạm thời chỉ thực sự phát sinh khi người nộp đơn đã được cấp bằng độc quyền. Do vậy, trong trường hợp đã được thông báo mà người được thông báo vẫn tiếp tục sử dụng sáng KDCN thì khi Bằng độc quyền KDCN được cấp, chủ sở hữu có quyền yêu cầu người đã sử dụng phải trả một khoản tiền đền bù tương đương với giá chuyển giao quyền sử dụng sáng chế, KDCN, thiết kế bố trí đó trong phạm vi và thời hạn sử dụng tương ứng.

Quy định trên một lần nữa khẳng định sự độc quyền hay quyền sử dụng tuyệt đối KDCN của chủ sở hữu.

2.3.2. Nghĩa vụ của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp

Nghĩa vụ của chủ văn bằng bảo hộ KDCN nếu có thường là trong mối quan hệ với tác giả kiểu dáng (nếu như chủ sở hữu và tác giả không đồng nhất). Việc thuê người tạo ra KDCN hay có thỏa thuận với người sáng tạo tự do đều dẫn đến sự trao đổi lợi ích giữa hai bên, theo đó một khi bên thuê nhận được sản phẩm sáng tạo (KDCN), trở thành chủ sở hữu thì cũng có nghĩa vụ chi trả cho bên kia một khoản thù lao tương xứng, đây là nghĩa vụ bên thuê nhưng cũng đồng thời là quyền tài sản mà bên được thuê (người tạo ra kiểu dáng) đáng được nhận. Một số quốc gia ngoài ra cũng quy định khía cạnh quyền nhân thân cho tác giả KDCN theo hướng ghi nhận người sáng tạo trong văn bằng bảo hộ hay trong các tài liệu công bố, giới thiệu về kiểu dáng… với tư cách người sáng tạo ra KDCN.

Trong pháp luật Việt Nam, nghĩa vụ của chủ sở hữu KDCN được quy định tại khoản 2 điều 132 Luật SHTT 2005, theo đó, chủ sở hữu KDCN phải trả thù lao cho tác giả của KDCN mà mình sở hữu.

2.4. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp

KDCN sau khi đăng ký và được bảo hộ, chủ sở hữu của KDCN đã đăng ký có quyền độc quyền sử dụng, và quyền định đoạt đối với KDCN đó và quyền này

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

được bảo vệ bởi pháp luật. Chủ sở hữu KDCN sẽ có quyền được yêu cầu bảo vệ trước những hành vi xâm phạm quyền của mình đối với KDCN đã được đăng ký.

2.4.1. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp theo pháp luật Việt Nam - 10

2.4.1.1. Khái niệm hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với KDCN

Hành vi xâm phạm quyền đối với KDCN là các hành vi sử dụng, định đoạt các đối tượng được bảo hộ trong phạm vi và thời hạn bảo hộ mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu văn bằng bảo hộ, trừ trường hợp pháp luật cho phép.

Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hành vi: bao gồm các chủ thể là cá nhân, tổ chức thực hiện việc sử dụng, định đoạt KDCN không được sự cho phép của chủ thể có quyền SHCN đối với KDCN, theo đó chủ thể có quyền SHCN đối với KDCN là chủ văn bằng bảo hộ - người được ghi tên là chủ văn bằng độc quyền KDCN; người được chuyển giao hợp pháp quyền sở hữu KDCN - là tổ chức, cá nhân được ghi tên là Bên nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu KDCN do Cục SHTT cấp, người được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng KDCN - là tổ chức, cá nhân được ghi tên là Bên nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng li-xăng do Cục SHTT cấp (kể cả trường hợp li-xăng không tự nguyện) [19, tr.22].

Thứ hai, các chủ thể được coi là thực hiện hành vi xâm phạm khi các chủ thể này thực hiện một trong các hành vi xâm phạm đến các quyền độc quyền sử dụng, quyền định đoạt của chủ thể sở hữu KDCN.

Thứ ba, các chủ thể thực hiện các hành vi trên chỉ bị coi làm xâm phạm quyền đối với KDCN khi việc thực hiện hành vi này nằm trong thời hạn mà KDCN của chủ sở hữu đó đang còn trong thời gian được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên các hành vi sử dụng KDCN trong trường hợp KDCN đó chưa được pháp luật bảo hộ hoặc đã hết thời hạn bảo hộ không bị coi là xâm phạm quyền SHCN đối với KDCN do đặc trưng của quyền SHTT hay cụ thể đó chính là quyền SHCN đối với KDCN chỉ được bảo hộ trong một thời gian nhất định (khác biệt với quyền sở hữu tài sản thông thường).

2.4.1.2. Hành vi xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành

Chủ sở hữu KDCN có quyền sử dụng, định đoạt KDCN và pháp luật bảo hộ quyền đó, tức chủ thể sở hữu có thể thực hiện các hành vi đã được nêu tại khoản 2 điều 124 Luật SHTT và có quyền định đoạt đối với KDCN. Do vậy, mọi hành vi sản xuất sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp đã được bảo hộ hay hành vi lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông hay hành vi nhập khẩu các sản phẩm mang KDCN đã được bảo hộ… đều được coi là hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với KDCN. Đồng thời, pháp luật cũng đã quy định rõ các hành vi được coi là hành vi xâm phạm quyền đối với KDCN tại điều 126 Luật SHTT 2005:

Hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí

1. Sử dụng sáng chế được bảo hộ, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc kiểu dáng công nghiệp không khác biệt đáng kể với kiểu dáng đó, thiết kế bố trí được bảo hộ hoặc bất kỳ phần nào có tính nguyên gốc của thiết kế bố trí đó trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu.

2. Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mà không trả tiền đền bù theo quy định về quyền tạm thời quy định tại điều 131 của Luật này”

Theo đó, bất kỳ người nào có hành vi sử dụng KDCN được bảo hộ hoặc có hành vi sử dụng KDCN không khác biệt đáng kể với KDCN đã được bảo hộ trong thời hạn văn bằng bảo hộ độc quyền cấp cho chủ sở hữu KDCN vẫn còn hiệu lực mà không được sự cho phép của chủ sở hữu; hoặc là có hành vi sử dụng KDCN mà không trả tiền đền bù theo quy định tại Điều 131 Luật SHTT cho chủ sở hữu thì cũng bị coi là có hành vi xâm phạm quyền đối với KDCN.

Mặt khác, chỉ có thể coi các hành vi này là hành vi xâm phạm quyền sở hữu KDCN khi nó được thực hiện trong thời hạn bảo hộ KDCN. Bởi lẽ, một trong những khác biệt cơ bản giữa quyền sở hữu tài sản và quyền SHTT là quyền SHTT

chỉ được pháp luật bảo hộ trong một thời hạn nhất định. Hết thời hạn bảo hộ, quyền SHTT đối với KDCN sẽ chấm dứt, mặc dù đối tượng của quyền SHTT đó vẫn tồn tại. Khi đó, KDCN đó trở thành tài sản chung của toàn xã hội, bất kỳ người nào muốn đều có thể sử dụng, khai thác KDCN đó.

Đây là điểm then chốt để xác định một hành vi sử dụng, khai thác có phải là hành vi xâm phạm quyền sở hữu KDCN hay không[19, tr.25].

Tuy nhiên, không phải mọi hành vi nêu trên của người khác đều bị coi là hành vi xâm phạm. Việc xác định hành vi đó có phải là hành vi xâm phạm quyền đối với KDCN hay không còn phải dựa trên các căn cứ theo quy định tại Điều 5 Mục 1 Nghị định 105/2006/NĐ – CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 119/2010/NĐ – CP ngày 30/12/2010) quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ như sau:

Thứ nhất, phải xác định là KDCN đó có thuộc phạm vi được bảo hộ KDCN hay không. Có đáp ứng đủ các tiêu chí được bảo hộ và đã được cấp văn bằng bảo hộ độc quyền cho chủ sở hữu hay chưa.

Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong KDCN bị coi là xâm phạm hay không.

Hành vi bị coi là xâm phạm KDCN khi nó chứa yếu tố xâm phạm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Nghị định số 105/2006/NĐ – CP, yếu tố xâm phạm quyền đối với KDCN chính là sản phẩm hoặc phần của sản phẩm hình dáng bên ngoài không khác biệt đáng kể với KDCN đã được bảo hộ.

Sản phẩm bị coi là không khác biệt đáng kể với KDCN được bảo hộ khi KDCN đó là bản sao hoặc về bản chất là bản sao của KDCN đã được bảo hộ (khoản 4 Điều 10 Nghị định 105/2006/NĐ – CP). Để xác định sản phẩm đó có xâm phạm hay không người ta dựa vào phạm vi bảo hộ KDCN được ghi trong bằng độc quyền KDCN và tại khoản 3 Điều 10 Nghị định 105/2006/NĐ – CP cũng đã qui định các trường hợp sản phẩm bị coi là có yếu tố xâm phạm quyền đối với KDCN khi thuộc một trong các trường hợp sau:

- Trường hợp mà trên sản phẩm hoặc phần sản phẩm bị xem xét, kể cả

trường hợp đã được cấp Bằng độc quyền KDCN, có chứa tập hợp các đặc điểm tạo dáng hợp thành một tổng thể là bản sao hoặc về bản chất là bản sao (gần như không phân biệt được sự khác biệt) của kiểu dáng công nghiệp của chủ sở hữu khác đã được bảo hộ mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu đó.

- Trường hợp trên sản phẩm hoặc phần sản phẩm đang bị xem xét có tập hợp các đặc điểm tạo dáng hợp thành một tổng thể là bản sao hoặc về bản chất là bản sao của KDCN của ít nhất một sản phẩm trong bộ sản phẩm được bảo hộ của người khác.

Thứ ba, xem xét chủ thể thực hiện hành vi là ai, chủ thể thực hiện hành vi không phải là chủ sở hữu KDCN và không phải là người được pháp luật cho phép hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, đó là hành vi này phải xảy ra ở Việt Nam. Cần lưu ý, đối với hành vi xảy ra trên mạng internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc người tiêu dùng tin tại Việt Nam thì cũng bị coi là xảy ra ở Việt Nam.

2.4.2. Biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp

Hàng hóa xâm phạm là loại hàng hóa có bộ phận, chi tiết của sản phẩm có chứa yếu tố xâm phạm và có thể lưu hành như một sản phẩm độc lập. Trong trường hợp không thể tách thành một bộ phận và không thể lưu hành độc lập thì hàng hóa xâm phạm là toàn thể sản phẩm chứa yếu tố xâm phạm đó (Điều 28 Nghị định 105/2006/NĐ - CP). Khi có hàng hóa xâm phạm, tùy theo đối tượng yêu cầu, tùy tính chất sự việc, cơ quan thực thi áp dụng các biện pháp dân sự; hình sự; hành chính hoặc biện pháp kiểm soát hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu liên quan đến hải quan.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 200 Nghị định số 105/2006/NĐ – CP, các cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: các cơ quan Toà án, Thanh tra, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Uỷ ban nhân dân các cấp.

2.4.2.1. Biện pháp dân sự

Quan hệ SHCN mang bản chất của một quan hệ dân sự, đối tượng của nó là một loại tài sản đặc biệt: tài sản trí tuệ. Điều này giải thích cho việc các tranh chấp trong lĩnh vực này chủ yếu thông qua các thủ tục tố tụng dân sự. Theo quy định tại

khoản 1 Điều 4 Nghị định số 105/2006/NĐ – CP, biện pháp dân sự là biện pháp được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN khi có yêu cầu của chủ thể (được pháp luật quy định có quyền khởi kiện) yêu cầu Tòa án giải quyết. Biện pháp dân sự được áp dụng trong cả trường hợp hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện pháp hình sự.

* Các biện pháp dân sự áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm

Theo quy định tại Điều 202 Luật SHTT 2005, Tòa án áp dụng các biện pháp dân sự sau để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền đối với KDCN:

- Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm

- Buộc xin lỗi cải chính công khai

- Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự

- Buộc bồi thường thiệt hại

- Buộc tiêu hủy hay buộc phân phối hay đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất kinh doanh hàng hóa bị xâm phạm quyền đối với KDCN với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền KDCN.

Có thể thấy các biện pháp dân sự được áp dụng rộng rãi hơn so với các biện pháp bảo vệ khác. Bởi bất kỳ khi nào mà cá nhân, tổ chức thấy quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm, họ có quyền yêu cầu tòa án nhân dân can thiệp để bảo vệ quyền lợi cho mình một cách thuận lợi. Người khởi kiện ở đây có thể thay đổi yêu cầu của mình trong quá trình giải quyết vụ án hoặc đưa ra những yêu cầu khi khởi kiện.

Biện pháp dân sự yêu cầu bồi thường thiệt hại nhằm khắc phục được những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu, đảm bảo khôi phục tình trạng ban đầu khi quyền sở hữu chưa bị xâm phạm. Bồi thường dân sự phải dựa trên nguyên tắc thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu. Đây có thể coi là biện pháp duy nhất xác định mức thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra cho chủ sở hữu, đồng thời chủ sở hữu khi khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của minh phải thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự như đã nói trên.

Như vậy, biện pháp dân sự là một biện pháp bảo vệ quyền sở hữu KDCN của chủ sở hữu hợp pháp, biện pháp này được sử dụng tương đối phổ biến và đã đem lại hiệu quả nhất định.

* Chủ thể có quyền khởi kiện

Theo quy định tại Điều 2 Mục II Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BVHTT&DL – BKH&CN – BTP, chủ thể có quyền khởi kiện bao gồm: cánhân, tổ chức tranh chấp, quyền đăng ký KDCN; tác giả, đồng tác giả KDCN; chủ văn bằng bảo hộ KDCN; tổ chức, cá nhân có KDCN liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHCN; người thừa kế hợp pháp của tác giả KDCN người thừa kế quyền SHCN của chủ sở hữu KDCN; cá nhân, tổ chức được chuyển giao hợp pháp quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với KDCN.

* Thẩm quyền và trình tự, thủ tục giải quyết

Căn cứ Khoản 1 Điều 4 Nghị định 105/2006/NĐ-CP “…Thủ tục yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự….”Theo khoản 2 Điều 200 Nghị định số 105/2006/NĐ – CP, cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự là Toà án.

Theo khoản 4 Điều 25 BLTTDS 2004 thì một trong những tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án giải quyết là những tranh chấp về SHCN. Theo đó, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp quyền SHCN về KDCN theo cấp cụ thể là: Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tranh chấp SHTT nếu quan hệ SHTT thuần túy là tranh chấp dân sự (ví dụ: tranh chấp về yêu cầu đứng tên tác giả KDCN…). Tòa nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự nhưng đương sự hoặc đối tượng SHTT đang ở nước ngoài.Ngoài ra, tòa án nhân dân cấp tỉnh còn có thẩm quyền giải quyết tranh chấp SHTT giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận được coi là tranh chấp thương mại, kinh doanh và thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

* Quyền và nghĩa vụ chứng minh

Cũng như các vụ án dân sự khác, trong vụ tranh chấp SHCN thì nghĩa vụ chứng minh vẫn thuộc về các đương sự trong vụ án (Điều 79 Bộ luật TTDS 2004).

Tuy nhiên do tính đặc thù của quyền SHTT mà quyền và nghĩa vụ chứng minh của nguyên đơn và bị đơn trong vụ án về SHTT còn phải tuân theo qui định tại Điều 203 Luật SHTT 2005 và Điều 24 Nghị định 105/2006/NĐ - CP. Nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc bên kiểm soát chứng cứ phải đưa ra chứng cứ theo quy định tại khoản 5 Điều 203 Luật SHTT và Điều 94 Bộ luật TTDS.

* Căn cứ xác định mức thiệt hại

Nếu đơn khởi kiện có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại thì người nộp đơn phải chứng minh được các thiệt hại thực tế xảy ra. Theo quy định tại Điều 205 Luật SHTT 2005, căn cứ xác định mức thiệt hại bao gồm:

+ Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do hành vi vi phạm quyền SHTT, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất;

+ Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền SHTT với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng quyền SHTT trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện;

+ Nếu không xác định được mức thiệt hại như trên thì mức bồi thường thiệt hại sẽ do Tòa án quyết định nhưng không quá năm trăm triệu đồng.

+ Nếu nguyên đơn chứng minh được có thiệt hại về tinh thần thì mức bồi thường này cũng do Tòa án quyết định và trong khoảng từ năm triệu đến năm mươi triệu đồng.

*Yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Căn cứ điều 206 Luật SHTT, ngoài quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, chủ thể quyền đối với KDCN còn có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn tình trạng chứng cứ bị bên vi phạm tẩu tán hoặc tiêu hủy. Để bảo vệ cho chủ thể quyền SHTT, pháp luật quy định trong một số trường hợp thì họ có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời tại thời điểm khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện nhằm ngăn chặn kịp thời các hành vi có nguy cơ gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc các hành vi có mục đích tẩu tán hoặc phá hủy tài sản bị nghi ngờ vi phạm quyền SHTT hoặc các chứng cư liên quan. Các

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí