Giới Hạn Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Bmkd

2.4.1.2 Quyền cho phép người khác sử dụng BMKD

Chủ sở hữu có quyền sử dụng BMKD, đây là quyền đầu tiên và là quyền quan trọng nhất của chủ sở hữu. Từ quyền này, chủ sở hữu có quyền cho phép người khác sử dụng BMKD của mình. Việc cho phép người khác sử dụng BMKD cũng là để thu lại toàn bộ hoặc một phần chi phí, công sức mà chủ sở hữu đã phải bỏ ra để có được BMKD. Khi thực hiện quyền này, các bên phải lập thành văn bản gọi là hợp đồng để ghi nhận thỏa thuận các bên về việc sử dụng BMKD.

Theo Điều 123 Luật SHTT chủ sở hữu BMKD có quyền cho phép người khác sử dụng BMKD của mình, theo đó việc cho phép người khác sử dụng BMKD có thể thông qua hợp đồng sử dụng BMKD (hợp đồng li-xăng BMKD). Các hợp đồng phải thể hiện dưới dạng văn bản và phù hợp với các quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự, kinh tế.

Hợp đồng sử dụng BMKD là loại hợp đồng cho phép chủ sở hữu BMKD chuyển quyền sử dụng BMKD cho tổ chức, cá nhân khác. Theo Điều 141 Luật SHTT thì chuyển quyền sử dụng BMKD là việc chủ sở hữu BMKD cho phép cá nhân, tổ chức khác sử dụng BMKD thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình. Phạm vi đó là: áp dụng BMKD để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ, thương mại hàng hóa; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu sản phẩm được sản xuất do áp dụng BMKD. Và đổi lại, bên nhận quyền sử dụng BMKD phải trả cho chủ sở hữu một khoản tiền mà hai bên đã thỏa thuận gọi là giá chuyển giao quyền sử dụng.

Quyền chuyển quyền sử dụng BMKD được thực hiện theo hai cách: Thứ nhất, chủ sở hữu chuyển giao toàn bộ quyền sử dụng BMKD của mình cho người khác, người được chuyển giao trở thành độc quyền sử dụng BMKD đó; trong thời hạn của hợp đồng sử dụng BMKD đã ký kết, chủ sở hữu không được quyền chuyển giao BMKD đó cho bất kỳ bên thứ ba nào khác và cũng

không được sử dụng BMKD đó cho đến khi hết hạn của hợp đồng. Trường hợp này còn được gọi là chuyển quyền sử dụng BMKD thông qua hợp đồng độc quyền. Thứ hai, chủ sở hữu đã ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng BMKD cho người khác nhưng đồng thời vẫn có quyền sử dụng đối tượng đó và vẫn được quyền chuyển tiếp quyền sử dụng BMKD đó cho bất kỳ chủ thể thứ ba nào khác. Trường hợp này còn được gọi là chuyển quyền sử dụng BMKD thông qua hợp đồng không độc quyền.

Khi ký hợp đồng sử dụng BMKD, chủ sở hữu có quyền cho phép hoặc không cho phép bên được chuyển quyền được ký kết hợp đồng thứ cấp với người thứ ba.

Tuy nhiên, trong thực tế chủ sở hữu các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp thường muốn độc quyền khai thác, sử dụng tài sản trí tuệ của mình kể cả khi đã ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng đó cho người khác. Để bảo vệ cho các chủ thể được chuyển quyền sử dụng trong hợp đồng sử dụng nói trên khỏi những điều khoản mà bên chuyển quyền áp đặt nhằm gây bất lợi cho bên được chuyển quyền, pháp luật sở hữu trí tuệ quy định: Hợp đồng sử dụng đối tượng quyền sở hữu công nghiệp không được có các điều khoản hạn chế bất hợp lý quyền của bên được chuyển quyền, đặc biệt là các điều khoản không xuất phát từ quyền của bên chuyển quyền (Khoản 2 Điều 144 Luật SHTT). Theo đó, hợp đồng li-xăng BMKD không được có các điều khoản như: Cấm bên được chuyển quyền cải tiến BMKD; buộc bên được chuyển quyền phải chuyển giao miễn phí các cải tiến BMKD do bên được chuyển quyền tạo ra hoặc quyền đăng ký sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu công nghiệp đối với các cải tiến đó; Trực tiếp hoặc gián tiếp hạn chế bên được chuyển quyền xuất khẩu hàng hóa, cung ứng dịch vụ được sản xuất hoặc cung cấp theo hợp đồng chuyển quyền sử dụng BMKD đến các vùng lãnh thổ nơi mà bên chuyển quyền không nắm giữ độc quyền nhập khẩu hàng hóa đó; Buộc bên được chuyển quyền phải mua toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định các

nguyên liệu, linh kiện hoặc thiết bị của bên chuyển quyền hoặc của bên thứ ba do bên chuyển quyền chỉ định mà không nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ do bên được chuyển quyền sản xuất hoặc cung cấp; Cấm bên được chuyển quyền khiếu kiện về hiệu lực của quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD hoặc quyền chuyển giao của bên chuyển quyền.

Các điều khoản trên nếu xuất hiện trong hợp đồng thì mặc nhiên vô hiệu (Khoản 3 Điều 133).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Ngoài việc ký hợp đồng li-xăng, chủ sở hữu BMKD còn có quyền ký kết hợp đồng nhượng quyền thương mại để qua đó cho phép chủ thể khác sử dụng BMKD của mình. Hợp đồng nhượng quyền thương mại là loại hợp đồng theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ theo hai điều kiện sau: thứ nhất, việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; thứ hai, bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh (Điều 284 – Luật thương mại 2005).

Khi nhượng quyền, bên nhượng quyền có nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng BMKD cho bên nhận quyền kèm theo cung cấp tài liệu hướng dẫn hoặc tiến hành đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho bên nhận quyền. Còn bên nhận quyền có nghĩa vụ giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền, kể cả sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt; bên nhận quyền phải ngừng sử dụng BMKD đó khi kết thúc hoặc chấm dứt hợp đồng thương mại và không được nhượng quyền lại nếu như chưa được sự chấp thuận của bên nhượng quyền (Điều 287, 289, 290 Luật thương mại 2005).

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 9

2.4.1.3 Quyền ngăn cấm người khác sử dụng BMKD

Pháp luật đã quy định chủ sở hữu BMKD có độc quyền sử dụng BMKD trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để hưởng lợi ích do đối tượng đó đem lại. Điều này cũng đồng nghĩa với việc chủ sở hữu có quyền ngăn cấm bất kỳ ai sử dụng BMKD đó mà không có sự đồng ý của mình. Mọi người trong xã hội đều có nghĩa vụ phải tôn trọng, không được thực hiện những hành vi cản trở hoặc xâm phạm quyền sử dụng của chủ sở hữu. Mặt khác, BMKD là tài sản có giá trị của chủ sở hữu, có thể đem lại lợi ích trong kinh doanh, việc người khác sử dụng BMKD đó mà không được chủ sở hữu cho phép có ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của chủ sở hữu. Chính vì vậy, Điều 123 và Điều 125 Luật SHTT quy định chủ sở hữu có quyền ngăn cấm người khác sử dụng BMKD của mình.

Hành vi sử dụng BMKD bất hợp pháp có thể là một trong các hành vi như: áp dụng BMKD mà không được phép của chủ sở hữu để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ, thương mại hàng hóa; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu sản phẩm được sản xuất do áp dụng BMKD bất hợp pháp.

Đối với BMKD, do có tính bí mật đặc thù cho nên chủ sở hữu luôn tự ý thức được việc tự giữ gìn bí mật cho BMKD của mình, điều này đồng nghĩa với việc ngăn cấm người khác sử dụng BMKD đó. Đây là lẽ tự nhiên, vì khi chưa có các quy định của pháp luật về việc này thì các thương nhân cũng đã biết tự bảo vệ quyền lợi của mình, chống lại các hành vi tiếp cận, thu thập, bộc lộ và sử dụng bất hợp pháp thông tin bí mật trong kinh doanh.

Khi phát hiện có hành vi sử dụng bất hợp pháp BMKD, chủ sở hữu có thể yêu cầu chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm BMKD phải chấm dứt hành vi xâm phạm, buộc cải chính, xin lỗi công khai hoặc bồi thường thiệt hại. Chủ sở hữu có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi sử dụng BMKD bất hợp pháp hoặc khởi kiện ra tòa án, trọng tài để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Bên cạnh việc quy định chủ sở hữu có quyền ngăn cấm người khác sử dụng BMKD thì pháp luật cũng quy định các trường hợp không cho phép chủ sở hữu thực hiện quyền ngăn cấm của mình (Khoản 3 Điều 125 Luật SHTT) (phân tích ở phần 2.4.2 Giới hạn quyền SHN đối với BMKD).

Quyền sử dụng BMKD của chủ sở hữu hạn chế hơn so với quyền sử dụng sáng chế. Điều này là do đặc thù của BMKD. Vì BMKD là bí mật của doanh nghiệp lại được bảo hộ tự động không cần cấp văn bằng bảo hộ nên các chủ thể khác không biết nội dung của nó như thế nào, chủ sở hữu BMKD cũng không thể cho người khác biết được thông tin nào là của mình để họ loại trừ thông tin đó ra, không sử dụng, không xâm phạm, cho nên có thể có hiện tượng người nào đó tạo ra BMKD một cách độc lập xảy ra. Khi đó người tạo ra BMKD một cách độc lập ấy cũng được sử dụng BMKD như chủ sở hữu BMKD vì thực chất họ cũng là chủ sở hữu của thông tin mà họ tạo ra đó. Đây chính là hạn chế của quyền sử dụng BMKD so với sáng chế. Đối với sáng chế, nội dung của sáng chế đã được công khai và được bảo hộ thông qua cấp bằng sáng chế, tất cả mọi người đều biết đó là gì và của ai nên không nghiên cứu nữa, không áp dụng, không khai thác nó nếu không được phép của chủ sở hữu, trừ trường hợp người có quyền sử dụng trước.

2.4.1.4 Quyền định đoạt BMKD

Quyền định đoạt bao giờ cũng là quyền năng quan trọng của chủ sở hữu đối với cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Chỉ có chủ sở hữu mới có quyền định đoạt tài sản của mình. Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu. Theo Điều 195 Bộ luật dân sự 2005 thì quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó. BMKD cũng là một loại tài sản nên có thể được chủ sở hữu định đoạt theo các cách thức sau: bán, trao đổi, tặng cho, để

thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác theo quy định của pháp luật.

Như các phần trên đã phân tích, việc chuyển giao quyền SHCN đối với BMKD thông qua hợp đồng chuyển nhượng vừa là sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền SHCN đối với BMKD đối với chủ thể này vừa là sự kiện làm chấm dứt quyền đó với chủ thể khác. Bên cạnh đó, nó cũng là sự thể hiện ý chí của chủ sở hữu BMKD trong việc định đoạt BMKD của mình.

Về chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD thông qua hợp đồng chuyển nhượng

Chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp chuyển giao quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác thông qua hình thức hợp đồng bằng văn bản gọi là hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp và hợp đồng này phải phù hợp với quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự, kinh tế. Đối với BMKD, quyền chuyển nhượng cho người khác toàn bộ quyền đối với BMKD cũng phải được thực hiện dưới hình thức ký kết hợp đồng bằng văn bản (gọi là hợp đồng chuyển nhượng quyền đối với BMKD) phù hợp với quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự, kinh tế. Theo đó, để cho hợp đồng chuyển nhượng này có hiệu lực pháp luật thì nội dung của hợp đồng phải có đủ các yếu tố theo quy định tại Điều 140 – Luật SHTT đó là: tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng; căn cứ chuyển nhượng; giá chuyển nhượng; quyền và nghĩa vụ của bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng.

Ngoài ra, để cho hợp đồng chuyển nhượng quyền đối với BMKD phát sinh hiệu lực thì hợp đồng đó phải được đăng ký.

Chủ sở hữu BMKD có thể chuyển giao BMKD bằng nhiều cách thức như bán, trao đổi, tặng cho, để thừa kế, góp vốn thành lập doanh nghiệp, tổ chức lại doanh nghiệp… để thực hiện quyền định đoạt tài sản là BMKD của mình.

Về từ bỏ quyền sở hữu BMKD, đây vừa là sự kiện làm chấm dứt quyền SHCN đối với BMKD vừa thể hiện ý chí từ bỏ quyền sở hữu đó, một cách thức cơ bản biểu hiện quyền định đoạt của chủ sở hữu BMKD. Chủ sở hữu có thể tự chấm dứt quyền sở hữu đối với BMKD của mình bằng cách tuyên bố công khai hoặc thực hiện hành vi chứng tỏ việc mình từ bỏ quyền sử dụng và định đoạt tài sản đó.

Tóm lại, BMKD là một đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, là tài sản đặc biệt của các chủ thể kinh doanh, chủ sở hữu BMKD được pháp luật ghi nhận và bảo hộ đầy đủ các quyền cơ bản nêu trên.

2.4.2 Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD

Các quyền của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ tuyệt đối trong thời gian còn hiệu lực bảo hộ. Chủ sở hữu có độc quyền trong việc khai thác, sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, pháp luật lại quy định hạn chế các quyền nêu trên của chủ sở hữu để hài hòa lợi ích của chủ thể quyền với lợi ích chung của toàn thể xã hội đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp.


Giới hạn quyền là hạn chế quyền của chủ sở hữu trong một số trường hợp nhất định, phần mà bị hạn chế do pháp luật quy định đó là để chia sẻ cho một số chủ thể khác, chủ thể quyền không được phép ngăn cản các chủ thể này thực hiện quyền của họ.


Riêng đối với BMKD, do tính chất đặc trưng là sự độc quyền tuyệt đối của chủ sở hữu nên việc hạn chế các quyền nói trên mà pháp luật quy định đối với các chủ sở hữu BMKD có thể nói là hạn hẹp hơn so với các loại đối tượng

sở hữu công nghiệp khác đặc biệt là so với sáng chế hay kiểu dáng công nghiệp. Có nghĩa là các chủ sở hữu BMKD không bị chịu ảnh hưởng nhiều bởi các quy định về hạn chế quyền đó, ví dụ như đối với BMKD không chịu ảnh hưởng của quy định về người sử dụng trước, quy định về chuyển giao quyền sử dụng theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Vì có sự giới hạn quyền này mà pháp luật về quyền SHCN đối với BMKD bên cạnh việc bảo vệ quyền của các chủ sở hữu BMKD mà còn bảo vệ các chủ thể khác. Việc giới hạn quyền về cơ bản không ảnh hưởng đến lợi ích của chủ sở hữu BMKD mà đảm bảo được sự công bằng xã hội, tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển bình đẳng, hài hòa.


Giới hạn quyền SHCN đối với BMKD thể hiện ở chỗ chủ sở hữu BMKD không được ngăn cấm người khác bộc lộ, sử dụng BMKD trong một số trường hợp mà pháp luật quy định. Ví dụ trường hợp cơ quan nhà nước có quyền sử dụng BMKD không nhằm mục đích thương mại như phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, thực nghiệm hoặc các mục đích phi thương mại khác (điểm c khoản 3 Điều 125 Luật SHTT). Quy định này xuất phát từ sự giới hạn của quyền sở hữu công nghiệp, một đặc trưng của các tài sản vô hình, đó là sự chia sẻ lợi ích của chủ sở hữu đối tượng với các chủ thể khác nhằm làm hài hòa lợi ích của các chủ thể trong xã hội có liên quan. Nhà nước bảo vệ quyền cho các chủ sở hữu BMKD nhưng trong chừng mực nhất định cũng bảo vệ các chủ thể khác trong xã hội để các quan hệ trong xã hội cùng phát triển. Mặt khác khi cơ quan nhà nước sử dụng BMKD không nhằm mục đích thương mại như nói ở trên thì cũng không ảnh hưởng gì đến việc sử dụng BMKD của chủ sở hữu chúng. Nếu bảo vệ tuyệt đối chủ sở hữu BMKD, không cho bất kỳ ai sử dụng BMKD ngoài chủ sở hữu thì sẽ cản trở sự phát triển của xã hội. Quyền sở hữu trí tuệ nói chung và của quyền sở hữu công nghiệp nói riêng có

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí