Chỉ Tiêu Chi Phí Không Chính Thức Của Pci, 2006-2019


Từ trước năm 2018, chỉ số GCI là sự kết hợp của 114 chỉ số thành phần, và được chia làm 12 nhóm trụ cột với ba nền tảng, gồm: (1) Các lợi thế tự nhiên, (2) NLCT vĩ mô và (3) NLCT vi mô. 12 nhóm trụ cột bao gồm: thể chế, môi trường kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, y tế và giáo dục tiểu học, giáo dục và đào tạo đại học, hiệu quả thị trường lao động, hiệu quả thị trường hàng hóa, phát triển thị trường tài chính, quy mô thị trường, sẵn sàng công nghệ, trình độ phát triển của môi trường kinh doanh và năng lực đổi mới sáng tạo. Các trụ cột này lần lượt được tổ chức thành ba nhóm con: yêu cầu cơ bản, nâng cao hiệu quả và các yếu tố đổi mới và tinh tế. Ba phân nhóm được đưa ra các trọng số khác nhau trong tính toán Chỉ số tổng thể, tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, như được xác định bởi GDP bình quân đầu người và tỷ trọng xuất khẩu được thể hiện bằng nguyên liệu thô.

Trong đó, chỉ số thể chế bao gồm yếu tố thể chế công (Public Institution) và yếu tố thể chế tư (Private Institution) với các cấu phần: Hiệu lực của Chính phủ (Government Efficiency), Đạo đức và tham nhũng (Ethics and Corruption), Quyền sở hữu (Property Rights), Ảnh hưởng phi pháp (Undue Influence), An ninh (Security), thể chế tư. Chỉ số thể chế tổng hợp được tính từ tổ hợp thể chế công và thể chế tư như sau:

Thể chế= 0.75*Thể chế công+0.25*Thể chế tư

Chỉ số thể chế công là trung bình cộng của 5 chỉ số: Quyền sở hữu, Đạo đức và tham nhũng, Ảnh hưởng phi pháp, Hiệu lực của Chính phủ, An ninh.


5,5

Quyền sở hữu (Property

rights)

5

Đạo đức và tham nhũng (Ethics and corruption)

4,5

Ảnh hưởng phi pháp (Undue influence)


An ninh (Security )

4

Thể chế công (Public

institutions)

3,5

Thể chế tư (Private institutions)

3

Hiệu lực của chính phủ

(Government Efficiency)

2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017


Hình 3.4: Chất lượng thể chế của Việt Nam (2008-2017)

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ cơ sở dữ liệu bộ Global competitiveness Index


Theo đó, hình 3.4 biểu diễn xu hướng của tổ hợp các yếu tố cấu thành của chỉ số thể chế từ năm 2008-2017. Tương tự với chỉ số quản trị toàn cầu, thì chỉ số GCI cho thấy chỉ số an ninh luôn có điểm cao nhất so với các chỉ số còn lại. Chỉ số an ninh cao nhất đạt 4.95 điểm năm 2012, thấp nhất là 4.42 năm 2014. Năm 2017 chỉ số này đạt

4.78 điểm, tuy nhiên nếu nhìn chung trong cả thời kỳ thì chỉ số này có giảm nhẹ. Chỉ số đạo đức tham nhũng được cải thiện hơn trong giai đoạn này khi năm 2008 đạt 3.2 điểm, và năm 2017 tăng lên 3.44 điểm.

Yếu tố Ảnh hưởng phi pháp có cải thiện trong giai đoạn 2006 -2010, sau đó giảm sâu vào năm 2011 và 2012 rồi dần hồi phục cho đến năm 2016. Tuy nhiên, do yếu tố còn tồn tại sự thiên vị trong các quyết định của quan chức chính phù nên điểm số này vẫn còn rất thấp.

Yếu tố Hiệu lực của Chính phủ tăng đều trong giai đoạn 2006 – 2010, nhưng không duy trì đươc cho các năm sau. Vì vậy, điểm số nă 2016 vẫn thấp hơn năm 2010. Nguyên nhân của sự biến động này được cho là bắt nguồn từ lãng phí chi tiêu công và gánh nặng trong các quy định của Chính phủ.

Chỉ số thể chế và các yếu tố hợp phần bắt đầu giảm sâu vào năm 2011 và vẫn chưa được phục hồi vào năm 2015.

Nhìn chung, phân tích các bộ chỉ số cho thấy chất lượng thể chế của Việt Nam đang dần được cải thiện, nhưng tốc độ diễn ra chậm. Hơn nữa, chất lượng thể chế vẫn còn ở mức thấp so với trung bình của thế giới và các nước trong khu vực. Có thể thấy rằng vấn đề thể chế và chất lượng thể chế ở Việt Nam trong 10 năm trở lại đây có những đặc điểm như sau:

Thứ nhất, chất lượng thể chế hay vấn đề cải cách thể chế không được duy trì ồn định và liên tục. Chính phủ và các chuyên gia đã có những kêu gọi cải cách về thể chế kinh tế trong nhiều năm qua. Tuy nhiên nếu nhìn từ kết quả của các chỉ số chất lượng thể chế được công bố ở các tổ chức quốc tế như (GCI, WGI) thì các chỉ số được duy trì không ổn định, năm tăng và năm giảm. Do vậy, các chỉ số đánh giá chất lượng thể chế không có nhiều sự cải thiện trong 10 năm qua.

Thứ hai, chất lượng thể chế công không có nhiều sự cải thiện và chất lượng thể chế tư thì cải cách khá chậm chạp. Như kết quả phân tích diễn biến chỉ số GCI ở mục

3.1.2 cho thấy chỉ số thể chế tư không có nhiều sự cải thiện trong 2008-2017, thậm chí chất lượng thể chế năm 2017 chưa hồi phục lại được mức 2008 sau khi bị giảm kể từ 2010. Điều này khá thống nhất với một số kết luận trong các nghiên cứu khi cho rằng


khu vực tư nhân của Việt Nam còn nhiều hạn chế như: “nhiều doanh nghiệp tư nhân còn kinh doanh theo tình huống ngắn hạn; ý thức tự giác chấp hành pháp luật còn hạn chế. Một bộ phận doanh nhân còn thiếu kinh nghiệm quản lý, thậm chí thiếu trách nhiệm với xã hội, vì lợi ích cục bộ mà có những hoạt động kinh doanh gây tác động tiêu cực đến môi trường” (Nguyễn Mạnh Hùng, 2018).

Thứ ba, chất lượng của các quy định và chính sách còn yếu và chưa được thực thi hiệu quả. Như những phân tích ở trên thì chất lượng các quy định là một trong những chỉ tiêu thể hiện chất lượng thể chế, và chất lượng thực thi các quy định sẽ phản ánh chất lượng của nền quản trị. Tuy nhiên, chỉ số chất lượng các quy định từ năm 1996 đến nay có giảm, nhưng rất chậm chạp và vẫn ở dưới mức trung bình của thế giới. Trong khi đó, chỉ số hiệu lực của chính phủ (thể hiện chất lượng của dịch vụ công, hoạt động của các cơ quan chính phủ, thực thi các chính sách quy định, .v.v) có cải thiện so với năm 1996 (chuyển từ mức chỉ số âm sang mức chỉ số dương), nhưng vẫn ở mức yếu so với các nước trong khu vực, và dưới mức trung bình của thế giới. Sự chồng chéo trong các quy định và luật lệ, sự phức tạp trong các thủ tục hành chính, và sự yếu kém trong việc thực thi và triển khai các chính sách quy định sẽ là những lực cản để tạo dựng một môi trường kinh doanh thân thiện, và trong sạch ở Việt Nam.

3.2. Thực trạng chất lượng thể chế địa phương

Hiện nay Việt Nam có 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh/thành phố, với 5 thành phố trực thuộc trung ương. Sự đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (2004) với yêu cầu phân cấp “trên từng ngành, từng lĩnh vực một cách đồng bộ, bảo đảm hiệu lực quản lý thống nhất, xuyên suốt của Trung ương đối với địa phương và khuyến khích tính sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các địa phương” đã góp phần tạo ra một môi trường thể chế riêng của các địa phương (tỉnh). Bởi vậy, việc đánh giá chất lượng thể chế địa phương (cấp tỉnh) là xem xét chất lượng của các luật, các quy định và việc thực thi chúng, chất lượng của các cơ quan công quyền của địa phương trong việc thực thi và điều hành các chính sách và luật lệ đó. Trong phần này, dựa trên các bộ chỉ số đo lường chất lượng thể chế cấp địa phương được thực hiện gần đây, nghiên cứu xem xét thực trạng và các khía cạnh khác nhau của chất lượng thể chế cấp địa phương của Việt Nam.

Như đã trình bày ở chương 2, đánh giá chất lượng thể chế gồm nhiều tiêu chí khác nhau. Mỗi nghiên cứu, mỗi tổ chức dựa trên các góc nhìn về thể chế sẽ đưa ra các tiêu chí đánh giá nhất định. Các đánh giá chất lượng thể chế thường dựa trên việc lượng hóa các tiêu chí đánh giá chất lượng thể chế bằng các bộ chỉ số. Trong chương 2


của luận án đã nêu định nghĩa và các trụ cột đo lường chất lượng thể chế. Phân tích dưới đây đánh giá chất lượng thể chế của Việt Nam dựa vào các trụ cột đo lường thể chế trong chương 2 (xem mục 2.2.4) và hai bộ chỉ số được thu thập và xây dựng hàng năm từ năm 2006 cho đến nay dưới hai góc nhìn khác nhau: (i) góc nhìn của người dân với bộ PAPI đánh giá chất lượng quản trị và các dịch vụ hành chính công (dữ liệu chỉ có từ 2011-2018, (ii) góc nhìn của doanh nghiệp với bộ PCI đi sâu vào đánh giá chất lượng môi trường thể chế hỗ trợ các hoạt động của doanh nghiệp.

3.2.1. Vấn đề tham nhũng và kiểm soát tham nhũng

Tham nhũng và kiểm soát tham nhũng luôn là chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá chất lượng thể chế. Kiểm soát tham nhũng nằm trong trụ cột “Sự tuân thủ các thể chế được thiết lập để điều chỉnh các tương tác kinh tế và xã hội giữa công dân và nhà nước” để đo lường chất lượng thể chế. Theo tổng quan về định nghĩa và đo lường chất lượng thể chế thì “kiểm soát tham nhũng” sẽ phản ánh khá lớn chất lượng thể chế của một quốc gia, khu vực, địa phương.

Đối với bộ dữ liệu PCI không có chỉ tiêu đánh giá vấn đề tham nhũng một các trực tiếp, nhưng chỉ tiêu về “chi phí không chính thức” có thể xem như thay thế cho việc đánh giá tình hình nhũng nhiễu và tham nhũng của các cá nhân trong bộ máy công quyền đối với các doanh nghiệp.

Chỉ tiêu “chi phí không chính thức” của PCI gốc bao gồm các chỉ tiêu thành phần sau: “Các DN cùng ngành thường phải trả thêm các khoản chi phí không chính thức (% Đồng ý hoặc Hoàn toàn đồng ý); % DN phải chi hơn 10% doanh thu cho các loại chi phí không chính thức; % DN phải chi hơn 10% doanh thu cho các loại chi phí không chính thức; công việc đạt được kết quả mong đợi sau khi đã trả chi phí không chính thức (% thường xuyên hoặc luôn luôn)” (PCI, 2018).

Các chỉ tiêu thành phần của chỉ số “chi phí không chính thức” cho thấy phần nào bức tranh về nạn nhũng nhiễu, tham nhũng ở các địa phương. Trong khoảng 2006- 2019, việc doanh nghiệp phải trả các chi phí “bôi trơn” không chính thức có chút suy giảm. Tại tỉnh trung vị, có đến 54% doanh nghiệp phải trả chi phí không chính thức trong năm 2017, đã giảm so với mức 70% của năm 2006. Đặc biệt, trong giai đoạn từ 2009-2013, tại tỉnh trung vị tỷ lệ doanh nghiệp phải trả chi phí không chính thức có giảm xuống mức thấp nhất là 50%, nhưng giai đoạn 2014-2016 tỷ lệ này lại tăng lên 66%. Từ 2017-2019, vấn đề chi phí “bôi trơn” lại được cải thiện hơn ở các địa phương. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp phải trả chi phí không chính thức vẫn còn cao. Nhìn chung, môi trường thể chế ở các địa phương cho thấy sự minh bạch còn yếu, điều này


một phần sẽ dẫn đến các vấn đề về nhũng nhiễu, hạch sách, tham nhũng và cuối cùng phát sinh các chi phí không chính thức cho doanh nghiệp.

Trả thêm chi phí không chính

100

thức (%)

50

0

Giá trị nhỏ nhất

Giá trị lớn nhất

Giá trị trung vị

40

% Doanh nghiệp phải chi hơn 10% cho các chi phí không chính thức

20

0

Giá trị nhỏ nhất

Giá trị lớn nhất

Giá trị trung vị

Hơn nữa, có gần 10% doanh nghiệp tại tỉnh trung vị phải dùng đến gần 10% doanh thu cho các khoản chi không chính thức năm 2017, giảm nhẹ so với 12,9% năm 2006, đến năm 2019 tỷ lệ này còn 7,5%. Trong suốt giai đoạn từ 2006-2019, tỷ lệ này có xu hướng giảm ở các năm 2009-2013 với mức thấp nhất là 6.45%, và giai đoạn 2017-2019 với mức thấp nhất là 7.5%. Đặc biệt, các doanh nghiệp cho rằng vấn đề nhũng nhiễu khi giải quyết các thủ tục cho doanh nghiệp còn quá phổ biến, thậm chí tỷ lệ doanh nghiệp phải trải nghiệm hiện tượng nhũng nhiễu thậm chí tăng lên đến 20% tại tỉnh trung vị trong giai 2006-2017 (từ 39% năm 2006 lên 60.83% năm 2017) và có suy giảm trong 2017-2019 nhưng vẫn ở mức đạt 54%. Tương tự và cùng xu hướng, tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng các công việc sẽ đạt được kết quả như mong muốn sau khi trả chi phí không chính thức đã tăng từ 47% năm 2006 lên 60% năm 2019 (Hình 3.5).



2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

100

80

60

40

20

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

0

Hiện tượng nhũng nhiễu (%)


100

Công việc đạt kết quả mong

đợi sau khi trả chi phí không

chính thức (%)

50

0

Giá trị nhỏ nhất

Giá trị lớn nhất

Giá trị trung vị



2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Giá trị nhỏ nhất Giá trị trung vị Giá trị lớn nhất


Hình 3.5: Chỉ tiêu chi phí không chính thức của PCI, 2006-2019

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ cơ sở dữ liệu của bộ chỉ số PCI


Từ góc độ của người dân, vấn đề tham nhũng sẽ được đánh giá dựa trên chỉ số thành phần của PAPI là “kiểm soát tham nhũng”.


2,5

2

1,5

1

0,5

0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Kiểm soát tham nhũng trong chính quyền địa phương

Kiểm soát tham nhũng trong cung ứng dịch vụ công

Công bằng trong tuyển dụng vào khu vực nhà nước

Quyết tâm chống tham nhũng


Hình 3.6: Chỉ số kiểm soát tham nhũng PAPI, 2011-2019

Nguồn: Báo cáo PAPI 2018, 2019 và tổng hợp của tác giả

Các chỉ tiêu thành phần của chỉ số “kiểm soát tham nhũng” bao gồm: “Kiểm soát tham nhũng trong chính quyền địa phương, Kiểm soát tham nhũng trong cung ứng dịch vụ công, công bằng trong tuyển dụng vào khu vực nhà nước, và quyết tâm chống tham nhũng”. Các chỉ tiêu này có thang điểm từ 0.25-2.5 điểm. Hình 3.6 chỉ ra xu thế chung của các chỉ số thành phần của kiểm soát tham nhũng là tích cực và có sự cải thiện đáng kể từ 2011-2019. Chỉ tiêu thành phần “kiểm soát tham nhũng trong cung ứng dịch vụ công” luôn đạt điểm cao nhất và tăng từ 1.74 điểm năm 2011 lên 2.03 điểm năm 2019. Tiếp đến là chỉ số về “quyết tâm chống tham nhũng” cũng với xu hướng tích cực tăng từ 1.54 điểm năm 2011 lên 1.89 điểm năm 2019. Vấn đề về “kiểm soát tham nhũng trong chính quyền địa phương” từ quan điểm của người dân cũng cho thấy sự cải thiện hơn trong khoảng 2011-2019 (tăng từ 1.38 lên 1.73 điểm). Chỉ tiêu “công bằng trong tuyển dụng vào khu vực nhà nước” tuy cũng có xu hướng tích cực nhưng luôn có điểm số ở mức thấp nhất so với các chỉ tiêu khác trong 8 năm (tăng từ 0.91 năm 2006 lên 1.17 năm 2019).


Cụ thể hơn bảng 3.1 dưới đây phản ánh phần nào cảm nhận và đánh giá của người dân về tình hình tham nhũng khu vực công. Chẳng hạn, đối với vấn đề người xin việc phải “lót tay” để có thể xin vào làm cơ quan nhà nước theo đánh giá người dân không có nhiều sự thay đổi kể từ năm 2011 đến 2018. Tỷ lệ cho rằng người dân phải có chi phí “lót tay” khi đi xin việc trong khu vực công vẫn luôn ở trên mức 46%. Tỷ lệ tăng từ 2011-2016 (từ 46% lên 54%), sau đó tỷ lệ này giảm dần và trở về 46% năm 2018, nếu xét về xu hướng thì rõ ràng tình trạng “lót tay” khi đi xin việc không thay đổi. Tương tự xu hướng này đối với tình trạng chi thêm cho khám chữa bệnh, chi làm giấy phép xây dựng hay việc cán bộ chi công quỹ cho việc cá nhân. Chi tiền cho làm giấy chứng nhận sử dụng đất lại tăng từ 25% lên 32 năm 2018. Chỉ có chi tiền để học sinh được quan tâm đã giảm từ 42% xuống 32%, và theo xu hướng giảm trong suốt 8 năm.

Bảng 3.1: Tình hình tham nhũng khu vực công 2011-2018




Phải lót tay khi xin việc vào cơ quan nhà nước

Phải chi thêm tiền để được quan tâm khi đi khám chữa bệnh

Phải chi thêm tiền để làm giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất


Phải chi thêm tiền để học sinh được quan tâm


Phải chi tiền để làm xong giấy phép xây dựng


Việc dùng công quỹ cho mục đích riêng của cán bộ


Đúng phần nào (%)


Đúng (%)

Đúng phần nào (%)


Đúng (%)

Đúng phần nào (%)


Đúng (%)

Đúng phần nào (%)


Đúng (%)

Đúng phần nào (%)


Đúng (%)

Đúng phần nào (%)


Đúng (%)

2011

14

32

13

17

12

13

16

26

11

14

12

10

2012

14

33

13

15

9

13

14

29

11

15

12

9

2013

15

32

13

16

11

14

15

27.5

11

17

11

9

2014

15

34

14

19

11

15

16

27

13

17

12

11

2015

14

37

15

21

11

22

15

28

12

19

12

13

2016

16

38

17

21

14

21

14

25

12

19

16

12

2017

17

31

15

18

14

18

16

20

12

16

12

10

2018

18

28

15

17

15

17

14

18

13

13

13

9

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thể chế địa phương tại Việt Nam - 10

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ báo cáo PAPI 2018


Tóm lại, từ góc độ của người dân cho thấy tình hình tham nhũng nếu xét từ 2011-2019 không có nhiều thay đổi. Sự biến động theo chiều hướng tiêu cực từ 2013- 2016, được bù đắp lại bằng sự cải thiện trong các năm 2017-2018. Điều này được nhận định rằng: “Những nỗ lực chống tham nhũng trong hai năm qua dường như có tác động khá đáng kể tới đánh giá của người dân về hiệu quả kiểm soát tham nhũng trong khu vực công” (PAPI, 2018). Tuy nhiên, tỷ lệ người dân trải nghiệm và quan ngại về vấn đề tham nhũng vẫn rất cao, đặc biệt là vấn đề xin việc và thi tuyển ở các cơ quan nhà nước.

Tương tự, góc nhìn của doanh nghiệp cho thấy tình hình tham nhũng có cải thiện nếu tính từ 2006-2019. Trong khoảng từ 2011-2015, vấn đề tham nhũng diễn biến theo hướng tiêu cực, và tình hình tốt hơn từ 2016-2019.

Nhìn chung, vấn đề tham nhũng theo đánh giá của người dân có xu hướng tốt hơn nhưng không nhiều, tỷ lệ quan ngại vấn đề tham nhũng vẫn còn cao. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực của chính quyền các địa phương tiếp tục đẩy mạnh nâng cao biện pháp phòng chống tham nhũng tăng chất lượng quản trị và thể chế công cấp tỉnh.

3.2.2. Vấn đề chất lượng hành chính và dịch vụ công

Cũng dựa trên bộ chỉ số PCI và PAPI phần dưới đây sẽ phân tích thực trạng về chất lượng thủ tục hành chính và dịch vụ công trong 10 năm trở lại đây của Việt Nam.

Chất lượng thủ tục hành chính công từ góc nhìn của doanh nghiệp có thể được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu của bộ PCI như: “các chỉ tiêu về thời gian chờ đợi” và “các vấn đề khó khăn khi doanh nghiệp gia nhập thị trường”.

Hình 3.7 là các chỉ tiêu thành phần của chỉ số chi phí gia nhập thị trường của doanh nghiệp bao gồm: “Thời gian đăng ký doanh nghiệp - số ngày “, “thời gian thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp -số ngày “, “% DN phải chờ hơn một tháng để hoàn thành tất cả các thủ tục để chính thức hoạt động”, và “% DN phải chờ hơn ba tháng để hoàn thành tất cả các thủ tục để chính thức hoạt động”. Dựa trên, xu thế theo thời gian của các chỉ số, có thể thấy rằng các thủ tục hành chính đã có những cải thiện và doanh nghiệp phần nào giảm bớt được các gánh nặng về mặt thủ tục. Chẳng hạn, nếu như năm 2006 doanh nghiệp ở tỉnh trung vị phải mất 20 ngày cho thời gian đăng ký doanh nghiệp, thì con số này giảm còn 5 ngày trong năm 2019. Trong khi đó thời gian thay đổi nội dung đăng ký cũng giảm từ 10 ngày xuống 4 ngày. % doanh nghiệp trả lời phải chờ để hoàn thành thủ tục trong vòng 1 tháng giảm từ 25.8 xuống 12.9% năm 2017, và 17% năm 2019. Tương tự, thời gian doanh nghiệp chờ 3 tháng cũng

Xem tất cả 161 trang.

Ngày đăng: 04/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí