Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Trên cơ sở số liệu tại địa bàn tỉnh Hà Giang - 9

- Quyết định rút quyết định truy tố

Theo quy định tại Điều 181 BLTTHS sau khi VKS đã chuyển hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến Tòa án và Tòa án đã thụ lý để chuẩn bị xét xử, nhưng xét thấy có một trong các căn cứ quy định tại Điều 107 BLTTHS hoặc có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo theo quy định tại Điều 19, Điều 25, Điều 69 BLHS thì VKS rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án. Đó là:

- Những căn cứ quy định tại Điều 107 BLTTHS, đó là: Không có sự việc phạm tội; Hành vi không cấu thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác:

- Các căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo: Theo quy định của BLHS bị can, bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự trong các trường hợp sau đây: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 19 BLHS); Do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Có quyết định đại xá; Người phạm tội tự thú trước khi hành vi phạm tội bị phát giác; Người phạm tội chủ động ngăn chặn hậu quả của tội phạm; Người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục (khoản 2 Điều 69 BLHS).

- Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung

Trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì VKS xem xét giải quyết việc trả hồ sơ của Tòa án. Nếu Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung không đúng quy định tại khoản 1 Điều 179 BLTTHS, hướng dẫn tại Thông tư liên

tịch số 01/2010/TTLT- VKSNDTC- Bộ công an (BCA)- Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) thì VKS chuyển trả lại hồ sơ cho Tòa án và tiếp tục đề nghị truy tố. Nếu Tòa án trả hồ sơ có căn cứ và hợp pháp, VKS nghiên cứu các vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung nêu trong quyết định trả hồ sơ, nếu thấy những vấn đề Tòa án yêu cầu không thuộc thẩm quyền điều tra của VKS hoặc VKS không có khả năng thực hiện, thì VKS ra quyết định trả hồ sơ cho CQĐT để CQĐT bổ sung theo yêu cầu của Tòa án. Trong quyết định trả hồ sơ cho CQĐT cần phải nêu rò lý do trả hồ sơ và nội dung những yêu cầu cần phải điều tra bổ sung, như quyết định trả hồ sơ của Tòa án cho VKS.

Nếu kết quả điều tra bổ sung không làm thay đổi nội dung quyết định truy tố trước đây hoặc việc điều tra bổ sung không thể tiến hành theo yêu cầu của Tòa án, thì VKS ban hành văn bản trả lời Tòa án và giữ nguyên quan điểm truy tố.

Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn đến việc làm thay đổi nội dung quyết định truy tố: Nếu thay đổi về tội danh hoặc xác định có đồng phạm khác thì VKS yêu cầu CQĐT thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Sau khi hoàn thành việc điều tra bổ sung VKS lập lại bản cáo trạng cho phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được. Nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi áp dụng điểm, khoản của Điều luật... thì VKS yêu cầu CQĐT kết luận điều tra bổ sung, sau đó lập cáo trạng truy tố theo điểm, khoản mới... Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn đến việc đình chỉ vụ án thì VKS ra quyết định và thông báo cho Tòa án biết, nếu đình chỉ vụ án đối với một hay một số bị can trong vụ án, thì phải tiếp tục lập cáo trạng truy tố các bị can còn lại.

b. Tại phiên tòa sơ thẩm

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Khi THQCT tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, KSV có nhiệm vụ bảo vệ cáo trạng và quan điểm truy tố của VKS. VKS khi thực hành

quyền công tố trong giai đoạn điều tra, trên cơ sở kết quả kiểm sát điều tra, sau khi nghiên cứu đánh giá một cách toàn diện, khách quan, đầy đủ hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, nếu thấy có đủ cơ sở và cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự VKS quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử.

Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Trên cơ sở số liệu tại địa bàn tỉnh Hà Giang - 9

Bản cáo trạng là văn bản pháp lý của VKS để truy tố bị can, là căn cứ để phát sinh hoạt động xét xử của Tòa án, ghi nhận toàn bộ quá trình điều tra. Bản cáo trạng thể hiện đầy đủ thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Cáo trạng phải ghi rò tội danh và điều khoản của BLHS được áp dụng. Cáo trạng chính là hình thức thể hiện quyền công tố của VKS, là quyết định tố tụng mà VKS thay mặt Nhà nước để đưa đưa một người có hành vi phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Bản cáo trạng của VKS công bố tại phiên tòa truy tố người có hành vi phạm tội ra xét xử chính là kết luận của VKS dựa trên các chứng cứ tài liệu đã được thu thập khách quan và hợp pháp của quá trình điều tra.

Như vậy, bản cáo trạng là văn bản pháp lý do VKS ban hành để thực hiện quyền công tố nhà nước trong việc quyết định truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Trong các cơ quan THTT, VKS là cơ quan duy nhất được giao trọng trách truy tố người phạm tội ra trước Tòa.

Bản cáo trạng không chỉ là văn bản pháp lý quyết định đưa người phạm tội ra Tòa để xét xử, mà còn là văn bản xác nhận giới hạn của việc xét xử của Tòa án. Tòa án chỉ xét xử trong phạm vi nội dung của bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, sau khi KSV đọc cáo trạng, KSV có thể trình bày ý kiến bổ sung để làm rò thêm nội dung của bản cáo trạng, chứ không phải là ý kiến mới, bổ sung cáo trạng, làm thay đổi nội dung cáo trạng (trừ trường hợp được Viện trưởng đồng ý).

Trường hợp rút một phần quyết định truy tố: Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi nếu có căn cứ rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố; có tình tiết mới theo hướng có lợi cho bị cáo làm thay đổi quyết định truy tố hoặc đường lối xử lý đã được lãnh đạo VKS cho ý kiến thì KSV quyết định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Sau phiên tòa, KSV phải báo cáo ngay với lãnh đạo VKS.

Tham gia xét hỏi bị cáo tại phiên tòa của Kiểm sát viên

Xét hỏi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng nhất để xác định sự thật của vụ án, có thể những câu hỏi và những câu trả lời tại phiên tòa không khác với câu hỏi và câu trả lời trong giai đoạn điều tra, nhưng nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng: việc xét hỏi và trả lời diễn ra công khai, nó là hình thức kiểm nghiệm kết quả điều tra của CQĐT.

Từ khi Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp, thì vấn đề xét hỏi tại phiên tòa hình sự càng quan trọng hơn, đặc biệt với vai trò của KSV tham gia phiên tòa. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp là “Bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.

Với tinh thần “tranh tụng tại phiên tòa” như Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ chính trị đã đề ra, thì vai trò của KSV tham gia xét hỏi là đặc biệt quan trọng. Một phiên tòa có thể hiện tính tranh tụng hay không phụ thuộc phần lớn vào vai trò của KSV THQCT và kiểm sát xét xử tại tòa.

Để việc xét hỏi tại phiên tòa đúng với tinh thần cải cách tư pháp mà Bộ chính trị đã đề ra, KSV tham gia phiên tòa phải là người kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra của ĐTV theo đúng quy định của BLTTHS; dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, vì trong quá trình điều tra, KSV đã nắm

chắc được các tình tiết của vụ án, những hạn chế của công tác điều tra, những thiếu sót không thể khắc phục trong quá trình điều tra, thái độ khai báo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. KSV cần phải xây dựng một bản đề cương xét hỏi, nhất là với những vụ án phức tạp, có nhiều bị can, bị cáo, bị truy tố về nhiều tội khác nhau; nội dung xét hỏi với từng người tham gia tố tụng khác nhau cũng phải được chuẩn bị, hỏi ai trước, hỏi tình tiết nào trước, nếu các bị can khai báo mâu thuẫn với nhau thì xét hỏi bị cáo nào trước, bị cáo nào sau. Dự kiến người được hỏi trả lời như thế nào? Trong trường hợp người trả lời khác với nội dung trước đây thì cần đưa ra tài liệu nào để đấu tranh với người được hỏi. Đặc biệt chú ý theo dòi Hội đồng xét xử, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự xét hỏi, trên cơ sở đó mà KSV đặt câu hỏi thêm, tránh trường hợp nội dung đã được Hội đồng xét xử hỏi kỹ và việc trả lời của bị cáo cũng đã rò ràng, không có gì phức tạp, KSV lại hỏi lại.

Việc xét hỏi vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của KSV, cùng với HĐXX, KSV giữ quyền công tố tại phiên tòa tham gia xét hỏi bị cáo và người tham gia tố tụng khác để làm sáng tỏ hành vi của bị cáo, xác định sự thật khách quan của vụ án.

Đối với bị cáo: KSV khi tiến hành xét hỏi bị cáo cần làm rò: hành vi phạm tội của bị cáo, năng lực trách nhiệm hình sự của bị cáo, lỗi của bị cáo, vị trí vai trò của bị cáo và các đồng phạm khác, các đặc điểm nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả tội phạm, các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và những vấn đề liên quan khác trong vụ án… Đối với vụ án có nhiều bị cáo, phải hỏi riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể làm ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác, thì KSV phải đề nghị chủ tọa phiên tòa cách ly họ. Bị cáo bị cách ly được thông báo lại lời khai của bị cáo trước và có

quyền đặt câu hỏi với bị cáo đó để KSV hỏi chứ bị cáo không trực tiếp hỏi bị cáo đã khai trước.

Theo quy định tại Điều 209 BLTTHS thì, thì KSV hỏi về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo. Như vậy, KSV không chỉ hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội bị cáo mà còn phải hỏi cả các tình tiết liên quan đến việc gỡ tội thể hiện bản chất của TTHS nước ta là tố tụng “thẩm vấn” và nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án” là mục đích tối thượng của Nhà nước. Khi luận tội bị cáo, KSV không chỉ nêu các chứng cứ buộc tội bị cáo mà phải nêu các chứng cứ gỡ tội, các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Nếu sau khi xét hỏi mà chứng minh bị cáo không phạm tội thì KSV còn phải rút quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ vụ án.

Trình tự xét hỏi được BLTTS quy định cụ thể tại Điều 207: Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề liên quan đến việc giám định.

Cách thức xưng hô tại phiên tòa: thực tiễn xét xử cho thấy việc xưng hô giữa bị cáo với Hội đồng xét xử và KSV chưa thống nhất. Có phiên tòa bị cáo xưng hô với Hội đồng xét xử, KSV là tôi, cháu, em… đây là nội dung chưa được BLTTHS, các văn bản liên ngành Trung ương hướng dẫn cụ thể nên vẫn còn có việc xưng hô không thống nhất như trên. BLTTHS đã quy định trong giai đoạn điều tra bị can là người đã bị khởi tố về hình sự, trong giai đoạn xét xử khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì gọi là bị cáo. Vì vậy, theo chúng tôi trong quá trình xét xử KSV nên xưng hô mình là KSV hoặc xưng là tôi, đối với người phạm tội là xưng là bị cáo hoặc là tôi.

Luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm

Sau khi kết thúc phần xét hỏi công khai tại phiên tòa, nếu đủ căn cứ để buộc tội bị cáo như bản cáo trạng đã truy tố thì đại diện VKS THQCT tại phiên tòa trình bày luận tội để buộc tội bị cáo, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết luận về khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố. Luận tội phải căn cứ vào những tài liệu chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến tranh luận của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.

Để bản luận tội được tốt KSV phải làm tốt công tác chuẩn bị như nghiên cứu hồ sơ, xác minh thêm chứng cứ, báo cáo xin ý kiến lãnh đạo VKS, xây dựng dự thảo luận tội, đề cương xét hỏi, dự kiến các tình huống mới phát sinh tại phiên tòa… tại phiên tòa KSV phải căn cứ vào các chứng cứ đã đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. KSV phải ghi chép những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác để bổ sung và sửa chữa bản dự thảo luận tội.

Với tinh thần “tranh tụng tại phiên tòa” như Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ chính trị đã đề ra, đòi hỏi KSV phải xây dựng luận tội đáp ứng đầy đủ các yêu cầu:

- Phải phân tích đánh giá các chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ; đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, hậu quả gây ra, vai trò trách nhiệm và nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để đề xuất áp dụng pháp luật và vận dụng chính sách xử lý cho phù hợp; khi nêu hành vi phạm tội phải viện dẫn các chứng cứ chứng minh bảo đảm logic và sắc bén.

- Phải phân tích phê phán thủ đoạn phạm tội của bị cáo; phân tích bác bỏ những quan điểm không phù hợp với vụ án của những người tham gia tố tụng khác để làm sáng tỏ sự thật, bảo vệ chính sách pháp luật, thể hiện tính đấu tranh và tính dân chủ của luận tội.

Khi phân tích bác bỏ các quan điểm không phù hợp phải viện dẫn các chứng cứ chứng minh.

- Phải xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, tuyên truyền giáo dục pháp luật góp phần đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật.

Nội dung của bản luận tội:

- Phân tích đánh giá chứng cứ: Trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên toà, cần đánh giá khách quan, toàn diện và đầy đủ để xác định được sự thật của vụ án, xác định tội phạm đã xảy ra và kẻ phạm tội, hành vi phạm tội được diễn ra như thế nào? Nêu chứng cứ chứng minh (lời khai, kết quả giám định, các chứng từ… Nêu đúng hành vi phạm tội và viện dẫn chứng cứ chứng minh. Sau khi chứng minh toàn bộ hành vi phạm tội, làm rò hậu quả của tội phạm, ý thức chủ quan). Nếu có lời bào chữa của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác thì phải lập luận bác bỏ hoặc chấp nhận và viện dẫn chứng cứ chứng minh. Từ đó, KSV đánh giá tổng hợp, kết luận về sự việc phạm tội, kẻ phạm tội và viện dẫn các chứng cứ để chứng minh tội phạm như: Các biên bản khám nghiệm, kiểm tra, thu giữ vật chứng, giám định pháp y, sổ sách, chứng từ, lời khai của bị cáo, người bị hại, người liên quan, người làm chứng…

Trước CQĐT và tại phiên tòa (phân tích đáng giá những mâu thuẫn để kết luận đúng, sai cho rò ràng). Trên cơ sở đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án, KSV sẽ khẳng định nội dung truy tố của cáo trạng là hoàn toàn đúng hoặc có vấn đề gì cần phải thay đổi như: rút quyết định truy tố, thay đổi tội danh,

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 02/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí