Quy Định Về Thủ Tục Các Hoạt Động Tố Tụng

khung hình phạt nhẹ hơn… Đối với những vấn đề, tình tiết mới phát hiện tại phiên tòa có thể làm thay đổi nội dung, tính chất của vụ án nếu chưa được thẩm tra đầy đủ, chưa có đủ căn cứ thì không được kết luận mà phải đề nghị hoãn xử để điều tra xác minh.

Khi phân tích đánh giá chứng cứ đối với vụ án có nhiều bị cáo phạm nhiều tội, phải tuân theo quy định đi từ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đến tội phạm ít nghiêm trọng. Có thể xếp thành nhóm tội phạm có liên quan chặt chẽ với nhau để cùng phân tích đánh giá, như: tội giết người và cướp tài sản, tội đưa hối lộ và nhận hối lộ ….

- Phân tích, đánh giá tính chất, mức độ tội phạm, vai trò vị trí trách nhiệm của bị cáo (hoặc từng bị cáo): Trên cơ sở đánh giá chứng cứ để phân tích đánh giá đúng tính chất, mức độ của vụ án, tính chất hành vi và thủ đoạn phạm tội, xem xét mục đích và động cơ phạm tội, mức độ hậu quả tác hại do tội phạm gây ra (phân tích đánh giá hậu quả tác hại về các mặt kinh tế, chính trị, trật tự trị an …). Cần đánh giá đúng mức, không thổi phồng. Phân tích các tình tiết tăng nặng của vụ án (quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS). Phân tích những tình tiết giảm nhẹ của vụ án (quy định tại khoản 1, 2 Điều 46 BLHS). Xác định nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội.

Đánh giá, xác định vai trò, vị trí trách nhiệm của từng bị cáo trong vụ án. Khi đánh giá, phân tích vấn đề này cần tuân theo trật tự là các tội nghiêm trọng trước, ít nghiêm trọng sau; các bị cáo sắp xếp theo thứ tự về vai trò, vị trí trong vụ án như trong cáo trạng (nếu tại phiên tòa không có diễn biến thay đổi đáng kể). Đối với từng bị cáo cũng phải phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được áp dụng đối với họ.

Khi phân tích, xác định vai trò, vị trí của bị cáo nào xong thì kết luận bị cáo đã phạm tội gì (hoặc các tội gì), tội đó (hoặc các tội đó) được quy định tại điều, khoản, điểm nào của BLHS.

Nêu những thiếu sót, sơ hở, vi phạm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội... là nguyên nhân, điều kiện tội phạm phát sinh. Từ đó có kiến nghị với các cơ quan, đơn vị… rút kinh nghiệm, đề ra biện pháp khắc phục, sửa chữa.

- Đề nghị xử lý: Trên cơ sở đánh giá, phân tích tính chất, mức độ, hậu quả của vụ án, mục đích và động cơ phạm tội, thủ đoạn thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của vụ án, vai trò, vị trí của từng bị cáo trong vụ án và các các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được áp dụng cho từng bị cáo; nguyên nhân, điều kiện phạm tội… và có chú ý đến phục vụ tình hình đấu tranh chống tội phạm nói chung, một loại tội nào đó nói riêng; tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương… mà đề nghị xử lý đối với từng bị cáo. Khi đề nghị xử lý phải theo thứ tự sau:

Đề nghị hình phạt chính trước, đối với bị cáo chính trước (theo trật tự như đã nêu ở phần đánh giá vai trò, vị trí của từng bị cáo). Bị cáo phạm nhiều tội phải đề nghị hình phạt cho từng tội riêng biệt và tổng hợp theo quy định tại Điều 50 BLHS. Nếu bị cáo đang chấp hành một bản án khác thì phải đề nghị tổng hợp hình phạt theo Điều 51 BLHS.

Hình phạt bổ sung: Tất cả các bị cáo bị xét xử về các tội phạm mà theo quy định của BLHS, việc áp dụng hình phạt bổ sung là bắt buộc thì đều phải đề nghị áp dụng. Nếu đề nghị không áp dụng phải nêu rò lý do. Đối với hình phạt bổ sung mà luật quy định có thể (tuỳ nghi) thì phải cân nhắc để quyết định tội nào, với bị cáo nào thì áp dụng; tội nào, với bị cáo nào thì không áp dụng.

Các biện pháp tư pháp quy định tại Điều 41, 42, 43, 44 BLHS. Khi đề nghị bồi thường thiệt hại (nếu có) phải căn cứ cụ thể vào Điều, khoản, điểm của Bộ luật dân sự.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Luận tội của KSV tại phiên tòa là một hình thức thực hiện chức năng công tố của VKS tại phiên tòa. Điều 217 BLTTHS, Quy chế THQCT và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của ngành kiểm sát đã quy định cụ thể trình tự,

nội dung, cách thức, bố cục của luận tội. Luận tội là sự buộc tội chính thức cuối cùng của VKS. Bản luận tội thể hiện kết quả trong quá trình điều tra, kết quả đánh giá các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác.

Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Trên cơ sở số liệu tại địa bàn tỉnh Hà Giang - 10

- Tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- KSV trình bày lời luận tội (đã được trình bày ở phần trên).

- Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng trình bày ý kiến về luận tội của KSV:

- Đối đáp giữa KSV và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa: Trên cơ sở đề cương dự kiến các tình huống phát sinh tại phiên tòa đã được KSV chuẩn bị, sau khi xét hỏi công khai tại phiên tòa, KSV bổ sung các nội dung cần đối đáp cho phù hợp với diễn biến tại phiên tòa. Theo quy định tại Điều 218 BLTTHS:

Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của KSV và đưa ra đề nghị của mình; KSV phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến.

Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án.

Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị KSV phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được KSV tranh luận, quy định tại Điều 218 BLTTHS năm 2003.

Như vậy, nội dung đối đáp của KSV phụ thuộc vào các ý kiến tranh luận của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Việc tranh luận cũng không bị giới hạn về thời gian và theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa, KSV có trách nhiệm đối đáp lại tất cả các ý kiến tham gia tranh luận.

Để tranh luận tốt, đòi hỏi KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nắm cụ thể các tình tiết của vụ án; dự kiến những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa; nắm vững các quy định của pháp luật; dự kiến trước những người sẽ tham gia tranh luận và nội dung sẽ tranh luận của từng người để có sự chuẩn bị đối đáp với các ý kiến đó theo một thứ tự hợp lý. Tại phiên tòa, đòi hỏi KSV phải chú ý lắng nghe, ghi chép cụ thể ý kiến tranh luận của từng người, tìm ra mâu thuẫn trong các ý kiến đó để đưa ra những quan điểm, luận cứ đáp lại ý kiến của những người tham gia tranh luận.

Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm

Đây là một thẩm quyền riêng biệt của VKS nói chung và của khâu THQCT trong giai đoạn xét xử nói riêng. Để thực hiện tốt công tác kháng nghị thì công tác kiểm sát bản án của KSV được xem là khâu quan trọng trong vụ án.

Thẩm quyền kháng nghị của VKS được tiến hành: theo quy định tại Điều 232 BLTTHS quy định “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm”.

Đối tượng kháng nghị của VKS:

Đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nếu có vi phạm trong việc áp dụng pháp luật thì VKS tiến hành kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để Tòa án cấp trên tiến hành xét xử, xem xét lại vụ án trên cơ sở kháng nghị phúc thẩm của VKS.

Đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu phát sinh tình tiết mới thì VKS tiến hành kháng nghị để Tòa án cấp trên xem xét

lại vụ án theo thủ tục tái thẩm. Nếu có vi phạm trong việc áp dụng pháp luật thì VKS tiến hành kháng nghị để Tòa án cấp trên xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.

Căn cứ kháng nghị của VKS

- Căn cứ kháng nghị phúc thẩm: Bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, khi có một trong những căn cứ sau đây:

a. Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ;

b. Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án;

c. Có vi phạm trong việc áp dụng BLHS

d. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm khác về thủ tục tố tụng.

- Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm đã được BLTTHS quy định cụ thể:

Điều 273 BLTTHS quy định: Bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, khi có một trong những căn cứ sau đây:

1. Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ;

2. Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;

3. Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố, xét xử;

4. Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS.

Điều 291 BLTTHS quy định: Những tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm là:

1. Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật;

2. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho làm cho vụ án bị xét xử sai;

3. Vật chứng, biên bản phiên tòa, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;

4. Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật.

BLTTHS còn quy định rất cụ thể trong phần thứ tư và phần thứ sáu về trình tự thủ tục, thẩm quyền, giới hạn của việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm

2.2.3. Quy định về thủ tục các hoạt động tố tụng

Thủ tục tố tụng, nhất là thủ tục phiên tòa có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm tính chính xác, khách quan của quá trình giải quyết vụ án hình sự và bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Các quy định về thủ tục tố tụng thể hiện cụ thể nội dung các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự; thủ tục tố tụng được quy định như thế nào là đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của người tham gia phiên tòa; thủ tục tố tụng cũng thể hiện văn hóa tố tụng trong các giai đoạn tố tụng hình sự v.v...

Theo quy định của BLTTHS, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người tham gia tố tụng có vị trí trung tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Họ là người bị nghi thực hiện tội phạm, bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì vậy,

thủ tục tố tụng được quy định thế nào để đạt được mục đích tố tụng, không chỉ không để lọt tội phạm, không làm oan người không có tội, mà còn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, đặc biệt là của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Quá trình tố tụng giải quyết vụ án gồm hai yếu tố: xác định các tình tiết vụ án và ra phán quyết xử lý người thực hiện tội phạm. Chứng minh để xác định các tình tiết của vụ án là yếu tố rất quan trọng, mang tính quyết định đối với việc giải quyết vụ án. Thủ tục tố tụng cần được quy định là thế nào để đảm bảo xác định đầy đủ, chính xác, sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, việc chứng minh đó không phải được thực hiện bằng bất cứ giá nào, mà phải trên cơ sở tôn trọng, bảo đảm QCN. Không ngẫu nhiên mà pháp luật TTHS quy định chứng cứ dùng để chứng minh phải đáp ứng yêu cầu liên quan, khách quan và hợp pháp. Vì vậy, BLTTHS cấm các hành vi truy bức, dùng nhục hình, ép cung, mớm cung, dụ cung trong lấy lời khai, hỏi cung; quy định các điều kiện hợp pháp của các biện pháp thu thập chứng cứ (như có người chứng kiến trong khám xét, thực nghiệm điều tra, quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đọc lại biên bản ghi lời khai, biên bản phiên tòa.).

BLTTHS đã quy định các thủ tục tố tụng cơ bản bảo đảm cho hoạt động tố tụng đúng đắn, khách quan, tôn trọng và bảo đảm QCN của người tham gia tố tụng nói chung, của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tham gia tố tụng, nhất là phiên tòa, để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Tòa án chỉ xét xử vắng mặt họ trong những trường hợp do pháp luật quy định (Điều 187, 191). Tại phiên tòa những người tham gia tố tụng được giải thích quyền và nghĩa vụ trong thủ tục bắt đầu phiên tòa (Điều 201), được đưa ra chứng cứ và các yêu cầu trong giai đoạn xét hỏi (Điều 205) và được phát biểu và tranh luận trước Tòa để bào chữa hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong phần tranh luận

(Điều 217, 218). Các quy định về thủ tục phiên tòa giúp cho bị cáo, những người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích liên quan có điều kiện và quyền năng pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Đặc biệt, thể chế hóa tinh thần tranh tụng của Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị, Điều 218 BLTTHS quy định bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của VKS và đưa ra đề nghị của mình; KSV phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến; chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến và có quyền đề nghị KSV phải đáp lại những ý kiến tranh luận của những người tham gia tố tụng. Đồng thời, BLTTHS cũng quy định khi nghị án, Hội đồng xét xử chỉ được căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa (Điều 222). Các quy định này nhằm khắc phục tình trạng KSV không tham gia tranh luận đầy đủ khi thực hành quyền công tố và bản án của Tòa án không hoàn toàn dựa trên kết quả tranh luận tại phiên tòa. Đây là những bổ sung quan trọng của BLTTHS 2003 nhằm đưa ra những bảo đảm pháp lý để công dân bảo vệ quyền tự do dân chủ của mình trước phiên tòa.

Tuy nhiên, theo chúng tôi, quy định của BLTTHS 2003 về thủ tục tố tụng, nhất là thủ tục phiên tòa còn khiếm khuyết ở ba vấn đề cơ bản. Đó là: 1/ Chưa quy định sự có mặt bắt buộc của người bị tạm giữ, bị can hoặc người bảo vệ quyền lợi, người bào chữa của họ trong một số hoạt động điều tra thu thập chứng cứ quan trọng như thực nghiệm điều tra, khám xét, xem xét tại chỗ. để họ có thể có ý kiến và chuẩn bị cho việc bào chữa; 2/ Chưa thể hiện rò các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự nói chung, trong xét xử nói riêng; đặc biệt còn chưa có sự phân biệt rò ràng giữa chức năng buộc tội của VKS

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 02/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí