Một Số Bất Cập Trong Về Đảm Bảo Quyền Con Người Trong Công Tác Thực Hành Quyền Công Tố Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tỉnh Hà Giang

số 11 và đề nghị phê VKS tỉnh phê chuẩn Lệnh bắt khẩn cấp số 13; đồng thời ra Quyết định tạm giữ số 19 đối với Lê Ngọc Khuyến để điều tra làm rò hành vi phạm tội Đánh bạc quy định tại Điều 248 BLHS. Ngày 01/05/2014 Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Hà Giang đã ra quyết định Khởi tố bị can số 64 đối với Lê Ngọc Khuyến về tội Đánh bạc và ra Lệnh tạm giam 02 tháng 21 ngày đối với Khuyến. Đồng thời ngày 01/05/2014 cơ quan CSĐT đã có công văn đề nghị số 33; 29 đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn QĐ Khởi tố bị can và phê chuẩn Lệnh tạm giam đối với Khuyến để điều tra làm rò.

Trên cơ sở các tài liệu chứng cứ thu thập đã có hiện nay, VKSND tỉnh Hà Giang nhận thấy: Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Giang chỉ chứng minh được ngày 09/02/2014 Lê Ngọc Khuyến mang theo từ nhà số tiền 30.000.000 đồng lên xã Minh Tân, Vị Xuyên nhằm mục đích để đánh bạc. Nhưng tại chiếu bạc thì chưa chứng minh được Khuyến có trực tiếp đặt tiền xuống chiếu tham gia đánh bạc. Không chứng minh được vị trí ngồi của Khuyến? cách thức đặt tiền đánh bạc, số tiền Khuyến đặt để đánh bạc? số tiền Khuyến thắng bạc hoặc thua bạc? Đây là những căn cứ xác định cấu thành tội Đánh bạc (Điều 248) thì hành vi của Lê Ngọc Khuyến không cấu thành tội Đánh bạc quy định tại Điều 248 BLHS.

Như vậy, với các tài liệu chứng cứ thu thập đã có thì Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Hà Giang chưa chứng minh được Lê Ngọc Khuyến có hành vi phạm tội Đánh bạc - Điều 248 BLHS. Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án ngày 01/5/2014, VKSND tỉnh Hà Giang ra Quyết định không phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can và Lệnh tạm giam của Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Hà Giang đối với Lê Ngọc Khuyến.

- Về kết quả THQCT tại phiên tòa nhìn chung được thực hiện tốt theo đúng quy định của BLTTHS, thể hiện chủ trương cải cách tư pháp theo tinh

thần Nghị quyết 08-NQ/TW như bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án; KSV thực hiện tốt vai trò của mình khi tranh tụng tại phiên tòa; người tham gia tố tụng, nhất là bị cáo được đảm bảo thực hiện các quyền tố tụng được quy định; bản án, quyết định của Tòa án được xuất phát từ kết quả xét xử tại phiên tòa...

Với những nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định trong giai đoạn xét xử. VKS bảo vệ QCN thông qua hoạt động truy tố, buộc tội người phạm tội để Tòa án xét xử, kết tội, quyết định hình phạt. Bằng cách đó góp phần phòng ngừa tội phạm. Mặt khác, hoạt động kiểm sát xét xử của VKS còn bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, khắc phục tình trạng xét xử oan người vô tội, quyết định hình phạt và các biện pháp xử lý đối với bị cáo nặng hơn quy định của pháp luật hoặc áp dụng các biện pháp không được áp dụng đối với bị cáo, mọi hoạt động vi phạm pháp luật đều phải được xử lý kịp thời.

Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc bảo đảm các QCN của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự được thể hiện rò nhất trong thực tiễn tranh luận tại phiên tòa. Tinh thần đổi mới, cải cách tư pháp, tăng cường tranh tụng dân chủ tại phiên tòa mà BLTTHS đã ghi nhận đã được thực hiện tương đối đầy đủ trong thực tiễn xét xử của các Tòa án. KSV thể hiện quan điểm của VKS qua kết quả xét hỏi công khai tại phiên tòa, đối đáp có lập luận với tất cả các ý kiến của người bào chữa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác; tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng trình bày hết ý kiến mà không hạn chế về thời gian, về số lần tranh luận để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

3.2.2. Một số bất cập trong về đảm bảo quyền con người trong công tác thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang

Thứ nhất, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam khá cao so với tổng số bị can đã khởi tố.

Bảng 3.3: Tỉ lệ bị can áp dụng biện pháp tạm giam so với bị can đã bị khởi tố từ năm 2010 - 2014

Năm

2010

2011

2012

2013

2014

Tổng số bị can đã khởi tố

611

712

754

927

665

Số bị can bị tạm giam

348

510

508

464

551

Tỉ lệ

56,9%

71,6%

67,3%

50%

82,8%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Trên cơ sở số liệu tại địa bàn tỉnh Hà Giang - 12

(Nguồn: Phòng thống kê tội phạm và công nghệ thông tin, VKSND tỉnh Hà Giang)


Qua số liệu trên cho thấy, tình trạng lạm dụng biện pháp tạm giam, tỉ lệ bị can bị tạm giam khá cao (trên 65%). Do vậy, theo số liệu thống kê, VKS đã thường xuyên ra quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn khác với tỷ lệ (trên 18%) thể hiện bảng 3.2.

Nhiều trường hợp, căn cứ tạm giam chưa được thể hiện cụ thể. Nhìn chung trong quá trình điều tra vụ án, khi đề nghị VKS phê chuẩn quyết định tạm giam, đa số các trường hợp trong công văn đề nghị của cơ quan điều tra đều ghi căn cứ chung chung như “để đảm bảo cho công tác điều tra, xử lý”, “thấy rằng cần thiết phải tạm giam bị can, không để bị can trốn”, “không để bị can tiếp tục phạm tội” mà ít đưa ra được những căn cứ cụ thể. Mặc dù Điều 177 BLTTHS quy định sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Chánh án hoặc Phó chánh án Tòa án quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, nhưng trên thực tế, sau khi thụ lý hồ sơ thông thường VKS, Tòa án tiếp tục áp dụng biên pháp ngăn chặn tạm giam mà Cơ quan điều tra hoặc VKS đã áp dụng, rất ít trường hợp VKS thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam đã áp dụng trước đó.

Tuy chưa có một đánh giá nào cụ thể, toàn diện về các biện pháp ngăn chặn khác khi cho bị can, bị cáo được áp dụng. Nhưng theo tác giả đối với nước ta và trên địa bàn tỉnh Hà Giang thì việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên cho thấy: Tính chất không cách ly bị can, bị cáo khỏi gia đình, xã

hội của các biện pháp này ngoài việc thể hiện sự nhân đạo trong TTHS ở nước ta còn thế đem lại lợi ích về kinh tế, xã hội vì người bị áp dụng vẫn được làm việc bình thường và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhất là đối với địa bàn tỉnh Hà Giang lại cần thiết. Thực tế số bị can, bị cáo chiếm là người dân tộc thiểu số chiếm trên 85% trong tổng số án. Đối với những bị can, bị cáo là người dân tộc thiểu số tâm lý tự ti của họ rất cao, khi phạm tội các cơ quan THTT ngoài căn cứ vào quy định của pháp luật cũng cần phải tính đến hiệu quả của việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với người dân tộc thiểu số phạm tội. Có những trường hợp khi áp dụng biện pháp tạm giam đạt hiệu quả cao trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh đó không ít những trường hợp khi áp dụng biện pháp tạm giam lại để lại hệ lụy phía sau ví dụ như: đối với người dân tộc sống ở giáp biên giới Việt Nam - Trung Quốc, người bị bắt tạm giam là người đàn ông trụ cột trong gia đình, là lao động chính... khi họ bị bắt tạm giam người phụ nữ (người vợ), trẻ em (người con)... ở nhà dễ bị các đối tượng phạm tội lợi dụng vào các tội như: mua bán phụ nữ, mua bán trẻ em...thì liệu biện pháp tạm giam có đạt hiệu quả? Vì vậy, khi tạm giam các bị can là người dân tộc thiểu số cần phải hết sức chú ý những đặc điểm trên để áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cho phù hợp với từng đối tượng phạm tội mới đảm bảo được công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, QCN vẫn được đảm bảo khi THQCT.

Thứ hai, chất lượng THQCT của VSK còn những hạn chế nhất định. Theo số liệu thống kê của VKSND tỉnh Hà Giang, hàng năm số vụ án được Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung vẫn cao và chưa có chiều hướng giảm (số vụ án Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung năm 2010 là 03 vụ/05 bị can; năm 2011 là 07 vụ/11 bị can; năm 2012 là 10 vụ/15 bị can; năm 2013 là 09 vụ/49 bị can; năm 2014 là 08 vụ/11 bị can).

Đặc biệt, chất lượng hoạt động buộc tội của KSV tại phiên tòa còn

nhiều hạn chế, đặc biệt là trong xét hỏi, trong tranh luận để bảo vệ sự buộc tội; nhiều khi những nhiệm vụ này lại do Hội đồng xét xử thực hiện. Bởi vì, khi VKS hạn chế trong bảo vệ sự buộc tội mà Tòa án chỉ ra bản án trên cơ sở buộc tội tại phiên tòa thì sẽ dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm; nhưng nếu Tòa án “lấn sân” VKS thì sẽ dễ dẫn đến xâm phạm QCN của bị cáo. Nhiều trường hợp KSV còn bị động khi luận tội, tranh luận, cá biệt có trường hợp KSV khi tham gia THQCT kiểm sát xét xử không nắm vững hồ sơ vụ án nên lúng túng khi tranh luận.

- Thứ ba, thủ tục tố tụng, đặc biệt là thủ tục phiên tòa vẫn còn những quy định hạn chế hoặc không bảo đảm cho việc thực hiện quyền tố tụng của người tham gia tố tụng nói chung, của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng. Những vi phạm phổ biến là:

+ Giải thích quyền và nghĩa vụ tố tụng cho những người tham gia tố tụng chưa đầy đủ hoặc không rò ràng. Việc bảo đảm cho người tham gia tố tụng thực hiện quyền tố tụng của mình, nhất là quyền yêu cầu còn mang tính hình thức;

+ Trong lấy lời khai, xét hỏi chưa tạo điều kiện cho người tham gia tố tụng, nhất là quá trình xét hỏi các bị cáo tại phiên tòa, có những phiên tòa bị cáo chưa trình bày hết ý kiến của mình về các tình tiết của vụ án; có những vụ án, khi vắng mặt người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan KSV yêu cầu công bố lời khai tại phiên tòa nhưng Thẩm phán lại lờ đi hoặc quên không để ý nên cứ tiến hành xét xử theo "lịch trình" định sẵn trong đầu mà quên mất diễn biến, tình tiết phát sinh tại phiên tòa. Có những Thẩm phán còn lúng túng trong việc xét hỏi do BLTTHS không quy định cụ thể trình tự được xét hỏi.

+ Văn hóa tố tụng, nhất là xét xử tại phiên tòa vẫn còn nhiều hạn chế. Cách xưng hô thiếu thống nhất. Có những Hội thẩm xưng hô với bị cáo là

anh, chị tại phiên tòa. Quá trình THQCT tại phiên tòa, KSV nhắc nhở Hội đồng xét xử về cách xưng hô khi tham gia tố tụng.

3.2.3. Nguyên nhân dẫn đến bất cập, hạn chế của việc bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố ở tỉnh Hà Giang

Trên cơ sở thực trạng về tình hình bảo đảm QCN trong THQCT của VKSND tỉnh Hà Giang thời gian qua có thể chỉ ra một số nguyên nhân khách quan cũng như các nguyên nhân chủ quan, đó là:

Thứ nhất, do những bất cập về hệ thống văn bản pháp luật

Nhiều quy định của BLTTHS chưa phù hợp với bản chất Nhà nước pháp quyền, với đường lối đổi mới tư pháp, với các chức năng tố tụng trong tố tụng hình sự nước ta. Nội dung một số quy định của BLTTHS thể hiện chưa chính xác hoặc chưa đầy đủ chính sách tố tụng hình sự. Ví dụ, cho đến nay, pháp luật TTHS chưa coi tranh tụng là nguyên tắc của tố tụng hình sự; một số nguyên tắc cơ bản được thể hiện chưa đẩy đủ như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, quy định cho Tòa án một số thẩm quyền không thuộc chức xét xử như: khởi tố vụ án, trình tự xét hỏi...

Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo chưa được quy định đầy đủ, hạn chế trong việc bảo đảm quyền con người. BLTTHS không quy định quyền im lặng của bị can, bị cáo và không được coi sự im lặng đó như là một sự nhận tội. BLTTHS cũng không quy định quyền được thông báo về các chứng cứ buộc tội, thậm chí quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án, quyền được đối chất với người làm chứng, với người bị hại… để thực hiện quyền bào chữa của mình…

Các căn cứ áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng, nhất là biện pháp ngăn chặn không đầy đủ, không rò ràng. BLTTHS không quy định căn cứ nội dung của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không giam giữ như bảo lĩnh,

cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam quá rộng. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 88 BLTTHS quy định “Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng” trong khi đó theo quy định tại Điều 79 BLTTHS thì biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng khi có một trong những căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án. Nếu không có một trong những căn cứ đó thì dù bị can, bị cáo phạm tội gì cũng không được bắt giam. Như vậy, quy định của điểm a khoản 1 Điều 88 BLTTHS không phù hợp với Điều 79 BLTTHS. Không thể nói đã phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng là đương nhiên có căn cứ quy định tại Điều 79 BLTTHS được.

BLTTHS quy định khả năng tùy nghi quá rộng cho người có thẩm quyền tiến hành tố tụng dễ dẫn đến hạn chế QCN của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo. Ví dụ, theo quy định của Điều 79, điểm b khoản 1 Điều 88, khoản 2 Điều 228 BLTTHS, thì biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng khi “có căn cứ chứng tỏ rằng”, “Có căn cứ cho rằng”…; còn căn cứ đó cụ thể là gì, có buộc phải chứng minh không thì không được quy định rò ràng. Vì thế, trong thực tiễn, các căn cứ đó hoàn toàn được xác định theo đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn; việc áp dụng đó có thể là tiện lợi cho cơ quan THTT nhưng lại hạn chế QCN của người họ.

Thứ hai, về việc lạm dụng biện pháp tạm giam

Các biện pháp ngăn chặn không giam giữ rất ít được áp dụng trên thực tế, số bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú chỉ vào khoảng trên 18%. Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo hầu như không được áp dụng đối với bị can, bị cáo trên địa bàn tỉnh Hà Giang

Sở dĩ tỷ lệ bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam cao và ít được

hủy bỏ thay thế là do căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam liên quan đến nhận định chủ quan của người áp dụng chưa rò ràng. Đối với loại tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì theo quy định của điểm a khoản 1 Điều 88 BLTTHS trong mọi trường hợp người có thẩm quyền đều có thể áp dụng tạm giam mà không cần thêm bất cứ một căn cứ nào. Do căn cứ áp dụng như vậy lại trong điều kiện điều tra, truy tố, xét xử trên địa bàn rộng, cho nên không ít trường hợp việc áp dụng tạm giam đối với bị can, bị cáo rất tiện lợi cho tiến hành tố tụng nhưng vẫn không trái pháp luật. Hơn nữa, tính chất cưỡng chế của các biện pháp ngăn chặn không giam giữ không rò ràng cộng với thói quen “đã phạm tội là phải bị bắt giam” vẫn tồn tại ở nước ta, ở nhiều người, trong dư luận xã hội và thậm chí ở một số người tiến hành tố tụng cũng dẫn đến tình trạng trên. Trong quá trình tham gia bào chữa các vụ án hình sự, giới luật sư đã ghi nhận được một thực tế là biện pháp tạm giam đang bị lạm dụng như một biện pháp nghiệp vụ của cơ quan điều tra, thay vì đây là biện pháp ngăn chặn.

Như trên đã phân tích, tình trạng lạm dụng biện pháp tạm giam, tỉ lệ bị can bị tạm giam khá cao, chiếm trên 65%. Do vậy, theo số liệu thống kê, VKS đã thường xuyên ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khác với tỉ lệ ngày càng tăng năm 2010 là 8,6% đến năm 2014 là 12,4%.

Bên cạnh đó, nhiều trường hợp căn cứ bắt chưa được cụ thể. Trong quá trình điều tra vụ an, khi CQĐT đề nghị phê chuẩn quyết định tạm giam, đa số các trường hợp trong công văn đều ghi căn cứ chung chung như: "để đảm bảo công tác điều tra, xử lý", "thấy rằng cần thiết phải tạm giam bị can, không để bị can trốn"...rất ít khi trong công văn đề nghị của CQĐT gửi VKS phê chuẩn quyết định tạm giam đưa được những căn cứ cụ thể.

Thứ ba, trình độ, năng lực, nhận thức, trách nhiệm của một số KSV được giao nhiệm vụ THQCT chưa được cao

Vẫn còn một số KSV nhận thức không đầy đủ, sâu sắc vị trí, chức

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 02/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí