Nguyên Tắc Bảo Đảm Quyền Bào Chữa Của Người Bị Tạm Giữ, Bị Can, Bị Cáo (Điều 11)

tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật.

c) Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật.

2.1.5. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11)

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là nguyên tắc cơ bản đồng thời còn là chế định quan trọng của Luật TTHS mang ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo đảm tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Quyền bào chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các cơ quan THTT. Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được qui định là nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự (Điều 11 BLTTHS 2003) với những nội dung sau: a) Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; b) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện quyền bào chữa của họ. Tuy rằng, việc nhờ người khác bào chữa là quyền của bị can, bị cáo nhưng trong một số trường hợp mặc dù bị can, bị cáo không nhờ người khác bào chữa thì Tòa án vẫn phải chỉ định người bào chữa cho họ theo quy định của pháp luật.

2.1.6. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án (Điều 19)

Nguyên tắc này quy định KSV và những người tham gia tố tụng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng như người đại diện hợp pháp của họ có quyền bình đẳng trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu

cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án. Đây là bảo đảm pháp lý quan trọng để Viện kiểm sát bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

2.1.7. Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan (Điều 29); nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây ra (Điều 30)

Đây là những nguyên tắc được bổ sung trong BLTTHS 2003 liên quan đến bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Là những nguyên tắc quan trọng thể hiện trách nhiệm của Nhà nước (thông qua cơ quan tiến hành tố tụng) trước công dân trong trường hợp cơ quan, người THTT làm oan người không có tội hoặc gây thiệt hại cho công dân. Các nguyên tắc này không chỉ nâng cao trách nhiệm của cơ quan THTT, người THTT trong việc giải quyết các vụ án hình sự, lĩnh vực mà QCN có nguy cơ bị xâm phạm rất cao. Các nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong Luật bồi thường của Nhà nước được Quốc hội khóa 12 thông qua tại kỳ họp thứ V, trong đó có các quy định tương đối cụ thể các trường hợp bồi thường trong hoạt động TTHS.

Điều 29 BLTTHS quy định bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan. Điều luật khẳng định: người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Đồng thời, điều luật cũng quy định cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng đã làm oan có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan đã thực hiện việc bồi thường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Điều 30 BLTTHS quy định bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền THTT gây ra. Điều luật quy

định người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại.

Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Trên cơ sở số liệu tại địa bàn tỉnh Hà Giang - 7

Đồng thời, điều luật cũng quy định trong các trường hợp đó, cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan đã thực hiện việc bồi thường.

2.1.8. Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự (Điều 31)

Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những biện pháp quan trọng để phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động của người cũng như cơ quan THTT và cũng là biện pháp hữu hiệu để công dân, cơ quan, tổ chức sử dụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong tố tụng hình sự. Vì vậy, BLTTHS quy định bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS là nguyên tắc cơ bản của TTHS. Nguyên tắc này quy định:

Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo việc làm trái pháp luật trong TTHS của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành TTHS hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc cơ quan đó; Cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo theo trình tự, thủ tục và thẩm quyền mà BLTTHS quy định; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.

2.1.9. Nguyên tắc đảm bảo thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự

Nguyên tắc này quy định hai chức năng của VKS đó là: chức năng THQCT và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật TTHS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự bảo đảm cho việc bất kỳ một tội phạm phạm

nào, trong đó có các tội xâm phạm QCN đều bị truy tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật TTHS bảo đảm cho yêu cầu tăng cường pháp chế. Trong các giai đoạn của TTHS, VKS có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân tổ chức nào. Việc kiểm sát tuân theo pháp luật TTHS được VKS thực hiện từ khi có tin báo và tố giác về tội phạm đến giai đoạn thi hành án, bằng các biện pháp của Luật TTHS như: phê chuẩn các quyết định của CQĐT, huỷ bỏ các quyết định của các cơ quan THTT, tự mình tiến hành một số hoạt động hoặc ra các quyết định cần thiết trong việc giải quyết vụ án, kháng nghị các bản án và quyết định của Toà án... quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong quá trình giải quyết vụ án bảo đảm cho các hoạt động tố tụng được tuân thủ đúng pháp luật, loại trừ các vi phạm pháp luật của các cá nhân và tổ chức góp phần vào việc bảo vệ QCN. Tại khoản 3, Điều 23 BLTTHS 2003 quy đinh:

VKS THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Ngoài những nguyên tắc liên quan đến bảo đảm quyền con người nêu trên nhiều nguyên tắc khác được quy định trong BLTTHS như nguyên tắc xác định sự thật vụ án (Điều 10); nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng (Điều 14); nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 16); nguyên tắc xét xử công khai (Điều 18).. .ở các mức độ khác nhau cũng thể hiện rò ràng và cụ thể tư tưởng bảo đảm quyền con người trong luật tố tụng hình sự nước ta.

2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 liên quan đến việc bảo đảm quyền con người thông qua các nội dung của hoạt động thực hành quyền công tố

2.2.1. Bảo đảm quyền con người thông qua các nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Trên cơ sở các quy định của BLTTHS Việt Nam thì quá trình tố tụng của nước ta trải qua các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm), thi hành án. Điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Để mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện, điều tra, xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, Nhà nước giao cho VKS thay mặt nhà nước, theo đó VKS được sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án.

Điều 112 BLTTHS năm 2003 quy định:

Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này;

2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này;

3. Yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên theo quy định của Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;

4. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của CQĐT theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rò lý do;

5. Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; yêu cầu CQĐT truy nã bị can;

6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án [43, Điều 112].

Theo quy định này thì, nội dung THQCT bao gồm:

a. Khởi tố vụ án hình sự

Theo các quy định của BLTTHS từ Điều 100 đến Điều 109 thì: Thứ nhất, CQĐT có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến; đồng thời quản lý, xác minh toàn bộ các tố giác, tin báo về tội phạm. CQĐT có trách nhiệm thông báo cho VKS kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố. VKS có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của CQĐT đối với tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị việc khởi tố. Thứ hai, quyết định khởi tố vụ án hình sự dựa trên căn cứ: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu của tội phạm. Việc xác định có dấu hiệu của tội phạm dựa trên cơ sở sau đây: 1. Tố giác của công dân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức;

3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; 4. CQĐT, VKS, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm; 5. Người phạm tội tự thú”. Đây mới chỉ là thông tin về sự kiện cần phải điều tra. Để có căn cứ khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự, CQĐT phải tiến hành xác minh,

có hay không có hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm, nếu có thì hành vi nguy hiểm cho xã hội đó được quy định tại điều, khoản nào của BLHS để khởi tố điều tra cho phù hợp. Thứ ba, phần lớn các vụ án hình sự được khởi tố bởi CQĐT. VKS chủ yếu thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc khởi tố; nếu thấy quyết định khởi tố của CQĐT, của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ thì ra quyết định hủy bỏ và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự (khoản 2 Điều 109). VKS chỉ trực tiếp khởi tố vụ án hình sự trong hai trường hợp: Một là: hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Hai là: trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án hình sự (khoản 1 Điều 104).

VKS không chỉ tự mình ra quyết định khởi tố vụ án hình sự mà VKS trong phạm vi trách nhiệm của mình kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều phải được khởi tố, việc khởi tố phải có căn cứ và hợp pháp. Để thực hiện trách nhiệm trong việc khởi tố vụ án hình sự, VKS phải nắm đầy đủ thông tin tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức chuyển đến; đồng thời kiểm sát chặt chẽ việc xác minh, giải quyết của CQĐT theo quy định của BLTTHS. Không nắm đầy đủ và kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết của CQĐT đối với các tin báo, tố giác về tội phạm, tất yếu VKS sẽ thụ động, phụ thuộc vào CQĐT, thiếu cơ sở vững chắc để THQC ngay từ khi khởi tố vụ án, tiềm ẩn nguy cơ bỏ lọt tội phạm và người phạm tội hoặc làm oan người vô tội.

Đối với những vụ án về các tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của BLHS chỉ được

ra quyết định khởi tố vụ án khi đã có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Yêu cầu khởi tố của người bị hại hoặc của

người đại diện thể hiện bằng đơn yêu cầu có chữ ký hoặc điểm chỉ của họ; nếu người bị hại hoặc người đại diện đến trực tiếp trình bày thì CQĐT, VKS phải lập biên bản ghi rò nội dung yêu cầu khởi tố và yêu cầu họ ký hoặc điểm chỉ vào biên bản. Biên bản do VKS lập phải được chuyển ngay cho CQĐT để xem xét việc khởi tố vụ án hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án. Nếu ngay sau khi khởi tố vụ án hình sự mà người bị hại hoặc người đại diện của họ rút yêu cầu khởi tố thì CQĐT ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án và thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp; nếu đang điều tra hoặc đã kết thúc điều tra thì CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra; nếu đã chuyển hồ sơ cho VKS thì VKS ra quyết định đình chỉ vụ án. Trong trường hợp xét thấy việc rút yêu khởi tố của người bị hại trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì CQĐT, VKS vẫn có thể tiếp tục THTT đối với vụ án theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 105 của BLTTHS.

b. Trong việc khởi tố bị can

Khi có đủ căn cứ xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì khi có đủ căn cứ xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì CQĐT ra quyết định khởi tố bị can; khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can phải tương thích về tội danh và hành vi phạm tội, Quyết định khởi tố vụ án phải có trước quyết định khởi tố bị can hoặc ban hành cùng với quyết định khởi tố bị can trong trường hợp xác định được ngay hành vi phạm tội (trong các vụ án phạm tội quả tang). Sau khi khởi tố bị can CQĐT có quyền áp dụng các biện pháp điều tra theo quy định để làm rò tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị can, tương ứng với từng điều, khoản của BLHS; Trong quá trình điều tra vụ, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS cùng cấp có quyền ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, nhưng VKS chỉ thực hiện thẩm quyền này khi đã yêu cầu mà CQĐT không thực hiện.

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 02/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí