nét bản sắc trong văn học dân tộc thiểu số. Bởi lối so sánh liên tưởng là một trong những đặc điểm tư duy của người miền núi. Hình ảnh được so sánh thường là những hình ảnh thiên nhiên gắn bó với cuộc sống của họ. Chính những điều đó đã khiến cho vẻ đẹp của những người con gái miền núi trở nên tươi tắn và duyên dáng lạ kì.
Bên cạnh thủ pháp so sánh liên tưởng, Cao Duy Sơn còn sử dụng đắc lực bút pháp ước lệ, tượng trưng của văn học dân gian và văn học trung đại trong khi miêu tả ngoại hình những nhân vật nữ mang tính lí tưởng. Ca dao người Kinh có rất nhiều câu sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng khi ngợi ca vẻ đẹp của người con gái:
“Cổ tay em trắng như ngà Đôi mắt em liếc như là dao cau”
Tục ngữ Tày cũng có câu :
Hay:
“Phụ nữ là lá là hoa
Là sao đêm sáng, là bầu trời xanh”
“Con gái má lúm đồng tiền Chân trắng bẹ chuối bóc Tay thuôn búp măng mọc
Có thể bạn quan tâm!
- Cảm Hứng Về Những Giá Trị Văn Hóa Truyền Thống Của Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số
- Cảm Hứng Trữ Tình Về Thiên Nhiên Miền Núi
- Thiên Nhiên Gắn Bó Chặt Chẽ Với Cuộc Sống Của Người Dân Miền Núi
- Bản sắc văn hoá dân tộc trong sáng tác của Cao Duy Sơn - 11
- Sử Dụng Thành Ngữ, Tục Ngữ Giàu Sắc Thái Địa Phương
- Vận Dụng Lối So Sánh, Liên Tưởng, Cách Nói Ước Lượng, Giàu Hình Ảnh
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
Nhiều trai làng chết lăn”
Cao Duy Sơn đã kế thừa thủ pháp đó trong việc khắc họa ngoại hình nhân vật. Những người con gái Tày trong sáng tác của ông nhờ đó mà hiện lên rực rỡ, đầy sức sống. Trong Hoa bay cuối trời, Dình có “khuôn mặt đẹp như bông đào trong nắng. Nụ cười bẽn lẽn, mắt chớp như cánh vẫy của loài bướm hoa”. Người con gái câm trong Dưới chân núi Nục Vèn “có đôi mắt đẹp như chim lửa, cổ trắng như ruột cây chuối rừng, môi đỏ như cánh hoa gạo”. Còn Ếm (Chợ tình) mang vẻ “đẹp như hoa…Mỗi khi cười trời như sáng bừng lên, hoa xuân lay lắc vui nhường lại nhan sắc”…Cách miêu tả này giống với nghệ
thuật miêu tả ngoại hình trong sáng tác của nhà văn Vi Hồng. “Hoa” đã trở thành hình ảnh mang tính chất ước lệ, tượng trưng cho vẻ đẹp của những người con gái. Vì thế mà đôi khi vẻ đẹp ấy mang tính đơn điệu, dễ lẫn.
Khi miêu tả ngoại hình nhân vật, Cao Duy Sơn thường không đặc tả mà hay chọn một điểm nhấn để làm toát lên vẻ đẹp, gợi được cả tâm hồn và tính cách của nhân vật. Những cô gái thì được tập trung miêu tả hai hình ảnh là mắt và môi. An có “cặp môi đỏ au như bi chuối rừng. Đôi mắt.. trong sáng như mắt chim Nục Phầy” [39,141]. Đôi môi của Diên “mọng đỏ như hoa mộc miên” [35,44]. Cạ có “cái mắt nhìn như có sao trời rơi xuống sông Quy” [37,202]. Đôi môi của người con gái sơn cước bao giờ cũng mang sắc đỏ như những loài hoa rừng, vừa tươi tắn lại vừa ngời lên sức sống. Đôi mắt lúc nào cũng sáng, trong như phản chiếu cả tâm hồn “thanh sạch như nước suối Bó Slao”. Đôi mắt ấy khiến cho biết bao lời tỏ tình đã để sẵn trong đầu của những chàng trai cứ chen nhau chạy trốn khi đối diện với nó. Cao Duy Sơn rất tài tình trong việc tìm điểm nhấn ở ngoại hình để lột tả được đời sống tâm hồn, tính cách của nhân vật. Vẫn là hình ảnh đôi mắt nhưng mắt của những nhân vật phản diện lại được miêu tả hoàn toàn khác. Khi mang trong lòng sự tàn nhẫn vô lương thì “đôi mắt một mí của Sài Vẳn ánh lên dữ tợn” [36,16]. Còn cái thèm khát được chiếm đoạt, được thỏa mãn nhục dục của Khàng (Dưới chân núi Nục Vèn) khiến cho đôi mắt nó “vằn đỏ như mắt con hổ đói hau háu nhìn cắm vào cái gáy nõn chuối rừng”. Chỉ thêm một từ “cắm” nhưng trong hai câu: “hau háu nhìn vào” và “hau háu nhìn cắm vào” mức độ, sắc thái của hành động “nhìn” là hoàn toàn khác nhau. Cái nhìn “cắm vào” ấy nâng sự thèm khát lên đến cực điểm, chuyển bản năng con người thành bản năng con vật bởi ngay sau cái nhìn ấy thì Khàng đã “chồm lên cô gái trong cơn thèm khát dữ dội”. Chỉ một cái nhìn thôi mà bản năng thú tính, tâm địa xấu xa của con người được lật tẩy. Nét tính cách gian xảo của Sìu (Song sinh) cũng được nhà văn khắc họa qua ánh mắt. Sìu và Du là cặp song sinh, “cùng nước da trắng bóc, tóc quăn tự nhiên, sống mũi gồ”
nhưng “Sìu mạnh mẽ nhanh nhẹn, rắn rỏi, mắt hay liếc trộm người” [41,59]. Chính cái ánh mắt “hay liếc trộm người” ấy gợi ra nét tính cách gian xảo. Ánh mắt ấy như một tín hiệu báo trước hành động tội lỗi của hắn sau này. Còn với lão Lâm (Người lang thang), sự tinh quái và độc ác của lão thể hiện rất rõ qua hình ảnh đôi mắt lão. Nó “tin hin như vệt kẻ chì” nhưng khi toan tính sẽ “rực lên như mắt cáo ăn đèn”. Đôi mắt của Soóng (Hòn bi đá màu trắng) thì “hẹp như mắt rắn”. Hình ảnh mắt rắn tự bản thân nó đã bộc lộ cái dã tâm và sự độc ác. Vì thế không đi quá sâu vào việc miêu tả nhiều nét ngoại hình của nhân vật nhưng Cao Duy Sơn vẫn tái hiện thành công những bức chân dung mang nhiều hàm ý để người đọc hiểu thêm về hình ảnh đa chiều của con người miền núi.
Có thể nói, Cao Duy Sơn đã rất linh hoạt trong cách thức miêu tả ngoại hình nhân vật. Với việc kế thừa có sáng tạo những thủ pháp của nghệ thuật xây dựng nhân vật truyền thống, ông đã phác họa một cách đầy đủ, chân thực và sinh động về hình ảnh đồng bào vùng cao. Qua đó người đọc nhận ra được những sắc thái khác nhau của đời sống tâm hồn, tính cách con người miền núi và quan niệm, thái độ của nhà văn với hệ thống nhân vật trong những sáng tạo nghệ thuật của mình.
3.1.2. Miêu tả nội tâm
Nếu như ngoại hình làm nên vóc dáng bên ngoài của nhân vật thì nội tâm làm nên toàn bộ đời sống bên trong của nhân vật. Đó là những suy nghĩ, những xúc cảm, những tâm trạng…của nhân vật trước tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc sống. Miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật chính là công việc đi sâu vào nghiên cứu con người bên trong bản thể người. Mà con người bên trong vô cùng phức tạp nên công việc này không chỉ đòi hỏi năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ mà còn đòi hỏi khả năng nắm bắt tâm lí con người và sự tinh nhạy trong tâm hồn người nghệ sĩ.
Một hiện thực đã từng tồn tại của văn học các dân tộc thiểu số là thiếu chiều sâu cảm nhận về những diễn biến trong đời sống nội tâm nhân vật. Các
nhà văn dân tộc thường quan tâm nhiều tới hành động, ngôn ngữ…nên thế giới bên trong con người chưa thực sự sinh động. Tuy nhiên, “gần đây, các tác giả dân tộc thiểu số thường hay triết lí về con người, về tính nhân văn của con người dân tộc và miền núi” [26,11], những trang viết của họ có nhiều khám phá về những diễn biến tinh tế trong đời sống nội tâm nhân vật. Cao Duy Sơn được coi là người “đem lại cho văn xuôi các dân tộc thiểu số một cách viết mới, một cách cảm nhận mới về con người” [26,12]. Trong sáng tác của ông, con người miền núi với nhiều cung bậc tình cảm đã hiện ra phong phú, chân thực và hồn nhiên như nó vốn có.
Nhà văn Cao Duy Sơn, trong quá trình khắc họa đời sống nội tâm nhân vật đã rất quan tâm tới thủ pháp độc thoại nội tâm và sử dụng nó như một phương tiện hỗ trợ đắc lực trong việc phơi bày những sắc thái cảm xúc của nhân vật. Biểu hiện tiêu biểu của độc thoại nội tâm mà nhà văn thường sử dụng là lời tự bạch. Nó được sử dụng để diễn tả mọi trạng thái tâm trạng của con người. Nỗi nhớ da diết của tình yêu đôi lứa thường đi liền với nỗi buồn và xa cách, cả niềm khát khao được nhìn thấy nhau…xuất hiện đầy đủ trong những lời tự bạch của Dình: “Một ngày không nhìn thấy anh là một ngày thế gian không có nắng, không có gió, rừng không nở hoa và không có cả tiếng chim hót…Anh hãy sớm trở về đây để cho em được nhìn thấy mặt. Trên đời này em chỉ biết thương có mình Khơ thôi” [41,107]. Việc sử dụng hàng loạt những từ phủ định “không” đã khiến cho sự chơ vơ, nỗi nhớ và khát khao gặp mặt của cô gái lên đến đỉnh điểm. Tâm trạng trống vắng, cô đơn trên cõi đời khi người tình cũng là người thương yêu duy nhất trên cõi đời không còn nữa được gợi ra từ những lời tự bộc bạch của lão Sinh: “Về a Ếm ơi! Anh biết em bỏ anh đi nơi khác một mình rồi, anh đâu dám trách Ếm. Ba xuân rồi anh đến mà không gặp em, anh biết em nghe được lời anh nói…Bây giờ thế này thôi, chợ từ nay không còn chúng mình nữa, không có em không còn chợ…” [41,57]. Mỗi câu ẩn chứa một niềm đau, một sự tiếc nuối vô bờ về sự hữu hạn của đời người khiến tình
yêu phải chia lìa, xa cách nhưng nó cũng hé mở tấm lòng thủy chung vô hồi vô hạn của con người miền núi. Nhân vật khi mang trong mình niềm vui tràn ngập cũng thường bộc lộ nội tâm qua hình thức lời tự bạch. Đó là những phút giây hạnh phúc của Dình khi được ở bên người yêu và được tưởng tượng ra cái ngày cưới của hai người: “Nó sẽ như thế nào nhỉ?…Bạn bè phù dâu phù rể sẽ sóng bước hai bên…nhìn cô dâu chú rể với ánh mắt ghen tị” [41,111]. Bên nhau và mơ ước về tương lai, điều đó rất phù hợp với diễn biến tâm lí của nàng lúc này.
Những lời tự bạch được nhà văn sử dụng để cho nhân vật tự bộc lộ nỗi lòng của mình và nó đã trở thành một thủ pháp mang dấu ấn khá đặc trưng của văn xuôi dân tộc thiểu số. Nó xuất phát từ thói quen trong cuộc sống của người Tày. Đó là khi có những nỗi lòng, tâm sự không biết và không thể san sẻ với ai họ thường tự nói với chính mình, như một sự tự sẻ chia. Nhà văn đã khai thác cách biểu lộ tình cảm đó của người đồng mình để phản ánh lối sống lặng lẽ và kín đáo của người Tày.
Bên cạnh lời tự bạch thì đối thoại trong độc thoại nội tâm cũng là một yếu tố được nhà văn chú ý sử dụng khi khắc họa tâm lí nhân vật. Đây là một dạng đối thoại đặc biệt, một kiểu đối thoại ngầm vừa như một sự tự vấn, vừa như sự tự mổ xẻ bản thân mình. Nhân vật tự đưa ra những câu hỏi cho chính mình mà nhiều khi không thể có câu trả lời. Vì thế nó diễn tả được tận cùng những cung bậc tâm lí của con người. Đó là nỗi buồn hơn cả nỗi buồn, đau trên cả nỗi đau của lão Sinh khi mú Ếm - người lão đem lòng thương nhớ cả cuộc đời, đã bỏ lại lão mà ra đi: “Uống được thôi là Ếm? Đấy, có say đâu? Em biết anh quý nhất thứ gì không? Đôi giày này đấy! Anh đã đem theo bên mình bằng cả mười lăm đời ngựa. Giày này tay em khâu, anh chỉ đi cho một mình em nhìn thấy, giờ không có em, anh đi cho ai ngắm đây?...” [41,57-58]. Bên gốc cây sau sau, lão như đang trò chuyện cùng mú Ếm. Những câu hỏi gợi ra biết bao kỉ niệm nghĩa tình, biết bao gắn bó thủy chung. Mỗi lời đối thoại ẩn chứa một tiếng
lòng, nhớ nhung, tiếc nuối, xót xa… Bằng những đối thoại ngầm, nhà văn đã để nhân vật được sống đúng với những diễn biến chân thực nhất của nội tâm mình.
Cũng có khi lời người kể chuyện và lời nhân vật hòa vào nhau khiến người đọc khó phân biệt rạch ròi. Đó là khi nhân vật Khin (Dưới chân núi Nục Vèn) rơi vào trạng thái giằng xé, day dứt ngổn ngang khi đứng trước sự lựa chọn giữa thù hận và yêu thương: “Lúc ấy nó biết đi đâu sống? Rời bỏ bản Luông này ư? Không được đâu! Bản Luông này Khin chịu ơn nhiều lắm. Ai đã cho nó cái chữ? Ai đã dậy nó cầm cái cày? Ai đã cho nó biết cách cầm cái búa, cái đục đập hòn đá, khoét cái cây dựng nhà?Ai đã thương yêu đùm bọc một đứa trẻ mồ côi, con của một người đàn bà xấu số có thân phận cay đắng…” [37,213]. Cái ơn ấy Khin phải trả cho bản Luông. Nhưng lời cha dặn và mối thù truyền kiếp của cha để lại phải làm thế nào? Ranh giới giữa cái thiện và cái ác trở nên mong manh buộc con người phải lựa chọn. Hai loại lời đó đan cài nhau đã diễn tả được chiều sâu đời sống nội tâm của nhân vật, giúp người đọc khám phá được những khuất lấp trong tâm hồn mỗi con người.
Độc thoại nội tâm với những dạng thức khác nhau đã được Cao Duy Sơn khai thác rất thành công để biểu hiện nỗi lòng của nhân vật. Nhà văn như đã hóa thân vào nhân vật để nếm trải và mổ xẻ đời sống tinh thần tinh tế qua những trạng thái tâm lí của nhân vật.
Bên cạnh độc thoại nội tâm, Cao Duy Sơn phản ánh đời sống nội tâm của nhân vật chủ yếu qua lời kể. Đây cũng là một đặc điểm trong việc miêu tả nội tâm nhân vật của văn học dân gian. Kế thừa văn học truyền thống, Cao Duy Sơn đã sử dụng lời kể để có thể diễn tả được những diễn biến tinh vi trong đời sống nội tâm con người. Ước muốn của Khin (Dưới chân núi Nục Vèn) rất gần với lối tư duy của người miền núi: “Mỗi lần thấy cái miệng vành trăng kia nói cười với những thằng con trai khác, nó ước có một phép lạ biến bọn con trai trong bản xấu xí như con khỉ, con vượn trên rừng” [37,203]. Yêu Cạ lắm nên Khin mới ghen và ước như vậy. Yêu Cạ đến độ “tưởng chừng không lấy được
Cạ thì Khin chết mất”. Nhưng tình yêu của Khin không được Cạ đáp trả. Thế nên đã có lúc nó “nâng nòng súng như miệng con rắn độc” nhằm vào Cạ để trả thù vì tình yêu không được đền đáp. Thế nhưng chỉ một tích tắc thôi, khẩu súng tuột khỏi tay Khin khi nó nghĩ tới đôi mắt của Cạ. Thế là “người nó bủn rủn, tay rời ra như bị điểm huyệt. Đầu óc mê mụ nổi loạn như kẻ mất trí” [37,212]. Nó hoảng loạn với chính hành dộng và ý nghĩ của mình. Và hận thù đã hóa thành lòng yêu thương khi nó phát hiện ra những kẻ đang định hãm hại Cạ. Bằng những câu kể, nhà văn đã cho ta thấy được những nét diễn biến trong tâm trạng của Khin. Diễn biến ấy ẩn chứa sự đấu tranh gay gắt trong chính nhân vật. Điều đó làm cho người đọc nhận thấy được sự phong phú, phức tạp và mạnh mẽ trong nội tâm nhân vật. Qua lời kể, diễn biến tâm lí của lão Vược (Cuộc báo thù cuối cùng) cũng được nhà văn mổ xẻ rất tinh tế: “Xong rồi! Món nợ suốt bao năm đau đáu nay đã được thanh toán. Tâm trạng lúc này mừng hay buồn lão không sao tách bạch được rõ ràng. Tự nhiên lão muốn khóc. Vẫn tư thế nửa nằm nửa ngồi không thay đổi, lão muốn nỗi lòng được tận hưởng trọn vẹn những giây phút huy hoàng của cuộc đời. Nhưng có gì đó không theo được ý lão. Buồn có, mừng có, trống rỗng hoang mang cũng có. Cả cay đắng, tủi nhục và nhớ thương cũng ào đến như những con sóng lũ. Lão thấy mình đang bị đè bẹp. Không sao gượng mình dậy được” [36,95]. Nhiều cung bậc tình cảm bủa vây lão. Tưởng trả xong món nợ cho người vợ quá cố là thanh thản nhưng không phải thế. Một nỗi buồn vẫn đan xen, sự trống rỗng lại tồn tại, cay đắng, tủi nhục, nhớ thương cũng “ào đến như những con sóng lũ”. Với cách miêu tả như vậy, tính nhân văn trong tác phẩm của Cao Duy Sơn được triển khai với một nội dung phong phú và sâu sắc.
Có thể nói, những biện pháp nghệ thuật được Cao Duy Sơn sử dụng để khai thác đời sống nội tâm nhân vật đã giúp độc giả nắm bắt được sâu sắc hơn đời sống nội tâm của những con người miền núi. Với sự kế thừa văn học truyền thống trong việc miêu tả tâm lí nhân vật, với nỗ lực vươn lên làm mới mình,
Cao Duy Sơn đã tái hiện được bức tranh đời sống bên trong con người miền núi. Đó là những con người có cuộc sống nội tâm phong phú, phúc tạp, mạnh mẽ dữ dội nhưng lại lặng lẽ, kín đáo.
3.1.3. Xây dựng thế giới nhân vật phân cực thiện - ác
Một đặc điểm nổi bật về thi pháp nhân vật trong văn xuôi các dân tộc thiểu số hiện đại là thế giới nhân vật thường được phân chia thành hai tuyến rõ rệt: chính diện và phản diện. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Cao Duy Sơn khá phong phú song nét nổi bật vẫn là một thế giới nhân vật có sự phân cực thiện - ác rõ rệt.
Bất kì sáng tác nào của nhà văn Cao Duy Sơn đều ẩn chứa cuộc đấu tranh giữa bóng tối và ánh sáng, giữa tốt và xấu, chính diện và phản diện. Đây là nét gần gũi với những câu chuyện cổ. Mụ dì ghẻ và Cám trong Tấm Cám, mẹ con Lí Thông trong Thạch Sanh là những nhân vật đại diện cho sự gian xảo, độc ác. Hành động của họ thường gây nên đau khổ và bất hạnh cho những con người hiền lành, lương thiện như Tấm, Thạch Sanh... Đến với sáng tác của Cao Duy Sơn, độc giả cũng sẽ bắt gặp rất nhiều nhân vật mang hình bóng của Lí Thông, của mụ dì ghẻ. Nhân vật Sài Vẳn trong truyện ngắn Người săn gấu mang trong mình tâm địa xấu xa và sự tàn độc đến ghê người. Vì ghen với tài săn gấu của Thim mà nó đã giả vờ mượn cây giáo của chàng và lén cưa vào một phần ngọn giáo. Khi Thim chiến đấu với con gấu để cứu Phón, cây giáo bị gãy và chàng đã suýt bị bỏ mạng. Khi chàng bị thương, hắn đã nhẫn tâm xát muối vào vết thương hòng làm cho chàng chết trong đau đớn. Sự tàn độc ấy cũng có trong con người của Chẩng (Hoa mận đỏ). Trước đây Chẩng yêu tha thiết Mảy Lìn nhưng khi người yêu anh ta phải về làm vợ Tài Pẩu thì con người Chẩng đã hoàn toàn thay đổi. Tình yêu trong hắn đã chết. Sự thù hận ngự trị khiến hắn trở thành con người vô cùng độc ác. Hắn đã giết chết Tài Pẩu - chồng của Mảy Lìn. Sau đó hắn cố tình tiếp cận với Mảy Lìn để hòng khơi gợi lại nghĩa tình xưa cũ. Nhưng ngay sau khi về ở cùng nhau thì hắn đã bộc lộ nguyên