Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: Tuyên bố bị cáo Phan Kim Phượng phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Phan Kim Phượng 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. (Bản án số 60/2019/HS-ST ngày 27 tháng 06 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh).
Như vậy, qua nghiên cứu vụ án trên cho thấy: Hành vi của bị cáo Phượng là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự an ninh công cộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh địa phương. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và có thái độ ăn năn, hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, i khoản 1, Điều 51 BLHS. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rò ràng, sau khi phạm tội tỏ ra ăn năn, hối cải nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo hưởng án treo và giao cho chính quyền địa phương theo dòi, giám sát cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, giúp ích cho xã hội là hoàn toàn chính xác.
Hay vụ án sau đây: Do có mâu thuẫn trước nên vào khoảng 22 giờ, ngày 11- 6-2016, Đàm Văn Phụng rũ Nguyễn Công Danh điều khiển xe mô tô biển số 70-B1-
120.59 của Nguyễn Công Danh chở Quốc Anh và Phụng đuổi theo Hồ Công Thành để đánh. Quốc Anh dùng cây đánh anh Thành 01 cái, anh Thành đưa tay lên đỡ trúng làm gãy tay trái của anh Thành với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 12% (Bản án số:111/2017/HS-ST ngày 10 tháng 08 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh).
Đối với vụ án trên: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác nên phải chịu trách nhiệm hình sự. Do đó cần xét xử các bị cáo mức án tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người tốt và góp phần phòng chống tội phạm. Trong vụ án vai trò của bị cáo Phụng là rủ rê, Lê Quốc Anh là người thực hiện hành vi tích cực, bị cáo Danh là người
giúp sức nên cần có mức án tương xứng đối với từng bị cáo. Ngoài ra bị cáo Danh khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi, nên cần áp dụng quy định tại Điều 69, 74 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Bị cáo có nhân thân tốt, có hộ khẩu rò ràng, đang đi học lớp 10 Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện Hòa Thành, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên không cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội mà nên áp dụng Điều 60 Bộ luật Hình sự xét cho bị cáo hưởng án treo cũng có tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
Chính vì vậy, HĐXX tuyên bố bị cáo Đàm Văn Phụng, Nguyễn Công Danh phạm tội “Cố ý gây thương tích” xử phạt bị cáo Đàm Văn Phụng 15 tháng tù. Xử phạt bị cáo Nguyễn Công Danh 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án. Việc HĐXX cho bị cáo Danh được hưởng án treo là hoàn toàn đúng với các quy định của pháp luật hình sự về áp dụng án treo. Để đạt được kết quả như trên, các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của
TAND hai cấp của tỉnh Tây Ninh đã làm việc với tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Bản thân từng Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đã không ngừng cố gắng nâng cao ý thức chính trị, lập trường quan điểm vững vàng đồng thời không ngừng học tập, rèn luyện về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để quyết định các VAHS, quyết định các Bản án hình sự nói chung và các Bản án có áp dụng chế định án treo đối với người phạm tội nói riêng một cách chính xác, kịp thời, nghiêm minh và khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu, cũng như đòi hỏi của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Nhìn chung, Toà án nhân dân hai cấp của tỉnh Tây Ninh thời gian qua đã áp dụng chế định án treo trong thực tiễn một cách thống nhất, áp dụng đúng các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng để cho các bị cáo được hưởng án treo phù hợp với hành vi phạm tội với một tỷ lệ tương đối ổn định qua các năm.
2.2.2. Những hạn chế, sai lầm trong áp dụng án treo
Có thể bạn quan tâm!
- So Sánh Án Treo Với Các Chế Tài Khác
- Quy Định Về Thời Gian Thử Thách Và Cách Tính Thời Gian Thử Thách Của Án Treo
- Quy Định Về Giao Người Được Hưởng Án Treo Cho Cơ Quan, Tổ Chức Hoặc Chính Quyền Địa Phương Giám Sát Giáo Dục
- Những Hạn Chế, Sai Lầm Trong Áp Dụng Về Hình Phạt Bổ Sung Đối Với Người Được Hưởng Án Treo
- Nguyên Nhân Của Những Bất Cập, Hạn Chế, Sai Lầm Trong Áp Dụng Án Treo Trên Địa Bàn Tỉnh Tây Ninh
- Yêu Cầu Của Công Cuộc Cải Cách Tư Pháp Và Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
2.2.2.1. Những hạn chế, sai lầm trong áp dụng các quy định về điều kiện áp dụng án treo
Bên cạnh những kết quả đạt được khi áp dụng những điều kiện áp dụng án treo của TAND hai cấp tỉnh Tây Ninh thì trên thực tế việc áp dụng chế định án treo
trong đó có áp dụng những điều kiện của án treo vẫn có một số tồn tại, hạn chế nhất định, cụ thể như: Các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là những người quyết định hình phạt cho bị cáo, quyết định có cho bị cáo được hưởng án treo hay không còn rụt rè, phân vân. Có trường hợp Thẩm phán vì sợ trách nhiệm, vì sợ ảnh hưởng đến việc bổ nhiệm chức danh, chức vụ sau này nên không dám quyết định, hạn chế cho bị cáo được hưởng án treo mặc dù đối chiếu các điều kiện bị cáo đủ để hưởng án treo. Chính vì lý do này mà tỷ lệ bị cáo được hưởng án treo của tỉnh Tây Ninh là 12,5 % thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ bị cáo được hưởng án treo chung của cả nước là 21,3%. Đặc biệt là TAND cấp huyện, số bị cáo khi kháng cáo được hưởng án treo chiếm tỷ lệ tương đối lớn cho thấy các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân cấp huyện cho bị cáo được hưởng án treo thấp, dẫn tới khi xét xử phúc thẩm được TAND cấp tỉnh cho hưởng án treo chiếm tỷ lệ cao, cụ thể :
Năm 2016 có 228 bị cáo được Toà án cấp tỉnh xét xử phúc thẩm nhưng trong đó không có bị cáo nào bị Toà án phúc thẩm chuyển từ cho hưởng án treo sang hình phạt tù, chiếm tỷ lệ 0%; có 15 bị cáo được chuyển từ hình phạt tù giam sang cho hưởng án treo, chiếm tỷ lệ 6,58 %;
Năm 2017 có 207 bị cáo được Toà án cấp tỉnh xét xử phúc thẩm nhưng trong đó không có bị cáo nào bị Toà án phúc thẩm chuyển từ cho hưởng án treo sang hình phạt tù, chiếm tỷ lệ 0%; có 16 bị cáo được chuyển từ hình phạt tù giam sang cho hưởng án treo, chiếm tỷ lệ 7,73 %;
Năm 2018 có 261 bị cáo được Toà án cấp tỉnh xét xử phúc thẩm nhưng trong đó không có bị cáo nào bị Toà án phúc thẩm chuyển từ cho hưởng án treo sang hình phạt tù, chiếm tỷ lệ 0%; có 15 bị cáo được chuyển từ hình phạt tù giam sang cho hưởng án treo, chiếm tỷ lệ 5,75 %;
Năm 2019 có 382 bị cáo được Toà án cấp tỉnh xét xử phúc thẩm nhưng chỉ có 01 bị cáo nào bị Toà án phúc thẩm chuyển từ cho hưởng án treo sang hình phạt tù, chiếm tỷ lệ 0,26%; có 26 bị cáo được chuyển từ hình phạt tù giam sang cho hưởng án treo, chiếm tỷ lệ 6,80 %;
Năm 2020 có 491 bị cáo được Toà án cấp tỉnh xét xử phúc thẩm trong đó có 03 bị cáo nào bị Toà án phúc thẩm chuyển từ cho hưởng án treo sang hình phạt tù,
chiếm tỷ lệ 0,6%; có 48 bị cáo được chuyển từ hình phạt tù giam sang cho hưởng án treo, chiếm tỷ lệ 9,66 %; [bảng 2.5 – phần phụ lục]
Qua số liệu phân tích trên cho thấy tỷ lệ các bị cáo được TAND tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm cho các bị cáo được hưởng án treo tương đối lớn: Năm 2016 là 6,58 %; năm 2017 là 7,73%; năm 2018 là 5,75 %; năm 2019 là 6,8%; năm 2020 là 9,66%. [bảng 2.5 – phần phụ lục]. Số liệu này cho thấy TAND tỉnh Tây Ninh trong việc xét các điều kiện cho bị cáo được hưởng án treo được tiến hành tương đối nhất quán và chính xác trong việc áp dụng đúng các điều kiện của chế định án treo nói riêng.
Bên cạnh đó, nhiều trường hợp HĐXX vì nhiều lý do khác nhau chưa nghiên cứu hồ sơ của bị cáo dẫn đến đánh giá chưa đúng về nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ TNHS, các tình tiết tăng nặng TNHS cũng như đánh giá chưa đúng về tính chất của hành vi phạm tội, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm dẫn đến việc quyết định cho người phạm tội được hưởng án treo còn chưa chính xác.
Điển hình như vụ án sau: Vào khoảng 12 giờ ngày 19/9/2018, Cao Công Danh điều khiển xe ôtô tải biển số 70C-008.90 chở Trần Văn Đông và Nguyễn Văn Bình lưu thông trên Quốc lộ 22 hướng từ huyện Trảng Bàng về huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh. Khi đến khu vực Thánh thất Cao Đài thuộc khu phố Gia Huỳnh, thị trấn Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Danh điều khiển xe lạng lách, đánh vòng lấn sang làn đường môtô để vượt xe ôtô đầu kéo đang lưu thông cùng chiều phía trước nhưng do đi với tốc độ cao, không quan sát kịp nên phần cản trước bên phải của xe ôtô va chạm với tay cầm bên trái của xe môtô biển số 70F1-7363 do bà Hồ Thị Bê điều khiển lưu thông cùng chiều trên làn đường môtô gây tai nạn giao thông làm bà Bê tử vong tại hiện trường, cháu bà Bê là Trần Văn Tú ngồi phía sau bị thương nặng.
HĐXX quyết định: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS. Xử phạt bị cáo Cao Công Danh 01 (một) năm tù, cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; thời gian thử thách 02 (hai) năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. (Bản án số 08/2019/HS- ST ngày 30/01/2019 của TAND huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh).
Nghiên cứu hồ sơ vụ án trên được biết bị cáo Danh mới bị xử phạt hành chính về hành vi: Vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ vào ngày 10/09/2018. Ngoài ra, trước đó bị cáo còn bị chính quyền địa phương xử phạt hành chính về hành vi: Gây rối trật tự công cộng vào ngày 01/07/2018. Tại địa phương, bị cáo là thành phần bất hảo, sống không có nghề nghiệp ổn định, thường rượu chè, cờ bạc… Như vậy, trong vụ án này, HĐXX quyết định cho bị cáo Danh được hưởng án treo là chưa hợp lý, vì điều kiện về nhân thân của bị cáo chưa đảm bảo nhân thân tốt. Theo khoản 2, Điều 2 Nghị quyết số 02/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định thì “Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo”
Trường hợp này bị cáo Danh đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần do đó không thuộc trường hợp bị cáo có nhân thân tốt nên cho bị cáo Danh hưởng án treo là chưa chính xác. Do đó, điều kiện xét không cần cách ly bị cáo khỏi xã hội cũng chưa đảm bảo. Chính vì vậy, trường hợp này cần áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo Danh.
Hay vụ án sau đây: Ngày 30-01-2020, tại vườn chôm chôm không có người ở thuộc khu phố Ninh Phúc, phường Ninh Thạnh, thành phố Tây Ninh, Lê Bình Yên đang tổ chức đánh bạc, Trần Văn Út tham gia đánh bạc dưới hình thức đá gà thắng thua bằng tiền với số tiền 660.000 đồng đến khoảng 13 giờ 30 phút thì bị Công an phường Ninh Thạnh, thành phố Tây Ninh bắt giữ cùng tang vật. Mặc dù số tiền các bị cáo tham gia đánh bạc, tổ chức đánh bạc chưa đủ định lượng phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng do các bị cáo đã có hành vi đánh bạc bị xử phạt hành chính, chưa hết thời hạn được coi là chưa có tiền sự, nên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Yên phạm tội “Tổ chức đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 322 của
BLHS; bị cáo Út phạm tội Đánh bạc” quy định tại Khoản 1 Điều 321 của BLHS là có căn cứ, đúng người đúng tội.
Bản án hình sự sơ thẩm số 117/2020/HS-ST ngày 01 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh đã quyết định: Căn cứ Khoản 1 Điều 322; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 của BLHS tuyên bố bị cáo Lê Bình Yên phạm tội “Tổ chức đánh bạc ” xử phạt bị cáo Lê Bình Yên 01 năm tù. Tuyên bố bị cáo Trần Văn Út phạm tội “Đánh bạc” xử phạt bị cáo Trần Văn Út 06 tháng tù.
Ngày 06-10-2020, bị cáo Yên có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo và phạt tiền với lý do bị cáo là lao động chính trong gia đình, đã ly hôn vợ phải nuôi mẹ già trên 60 tuổi và nuôi dưỡng con nhỏ. Ngày 09-10-2020, bị cáo Út có đơn kháng cáo xin được thay đổi hình phạt, từ hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo để nuôi 02 con nhỏ, chăm sóc gia đình.
Bị cáo Yên là người trực tiếp tìm người cáp đá gà, đứng ra làm trọng tài cáp gà của Sự và Út đá với gà của Nguyễn Thái Vinh đồng thời đứng ra cân gà, quy định cho gà đá và phán xét thắng thua, bị cáo giữ vai trò chính trong vụ án.Về nhân thân, ngày 28-3- 2017 bị cáo Yên bị Ủy ban nhân dân thành phố Tây Ninh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi dùng địa điểm khác để chứa bạc với số tiền
7.500.000 đồng, tuy đã hết thời hiệu được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính nhưng xem là có nhân thân xấu. Nên không đủ điều kiện để hưởng án treo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, số tiền bị cáo Yên phạm tội tổ chức đánh bạc không lớn, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi chạy thoát đã ra đầu thú, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Yên 12 tháng tù là có phần nghiêm khắc. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo Yên. Có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo.
Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn Út, thấy rằng: Bị cáo Út là người đề nghị bị cáo Yên tìm người cáp đá gà, trực tiếp đánh bạc nên phải chịu trách nhiệm tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Số tiền bị cáo dùng vào việc
đánh bạc không lớn. Lần phạm tội này là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bản thân bị cáo là lao động chính, phải nuôi mẹ già và con nhỏ nên Hội đồng xét xử xét thấy áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với bị cáo Út là phù hợp với tính chất, mức độ và điều kiện hoàn cảnh của bị cáo. Do đó, yêu cầu kháng cáo của bị cáo Út có căn cứ chấp nhận.
Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo Yên; chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Út sửa Bản án sơ thẩm. Căn cứ Khoản 1 Điều 322; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 54 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Lê Bình Yên phạm tội “ Tổ chức đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Lê Bình Yên 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Trần Văn Út phạm tội “Đánh bạc ”. Xử phạt bị cáo Trần Văn Út 4 tháng tù nhưng cho hưởng án treo (Bản án số: 178/2020/HS-PT ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh).
Như vậy, qua vụ án trên có thể thấy Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh xét xử sơ thẩm chưa xem xét hết tình tiết giảm nhẹ của bị cáo Út, những điều kiện về nhân thân của bị cáo nên không cho bị cáo được hưởng án treo là chưa chính xác, chưa đúng với tinh thần của Nghị quyết số 02/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, bị cáo kháng cáo và được TAND tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm, xét các điều kiện về mức hình phạt tù, các điều kiện về nhân thân bị cáo Út cũng như xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội vẫn đảm bảo tính răn đe nên tuyên phạt bị cáo Út 4 tháng tù nhưng ch hưởng án treo là hoàn toàn có cơ sở và chính xác.
Trên thực tiễn, TAND hai cấp của tỉnh Tây Ninh cũng có trường hợp HĐXX vì nhiều lý do khác nhau đánh giá chưa đúng về nhân thân người phạm tội, nhận định cho bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ không đúng theo quy định tại Điều 51 BLHS để cho bị cáo hưởng án treo; bị cáo có tình tiết tăng nặng nhưng có ít tình tiết giảm nhẹ cũng áp dụng án treo…Có trường hợp nhận định bị cáo có nhiều tình tiết
giảm nhẹ, áp dụng mức hình phạt dưới khung hình phạt theo quy định tại Điều 54 của BLHS và áp dụng Điều 65 BLHS để đảm bảo điều kiện về mức hình phạt tù từ ba năm tù trở xuống rồi áp dụng cho bị cáo hưởng án treo;
2.2.2.2. Những hạn chế, sai lầm trong áp dụng quy định về thời gian thử thách và cách tính thời gian thử thách của án treo
Thực tiễn xét xử trong giai đoạn 2016 đến 2020 của TAND hai cấp trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đều đúng quy định của pháp luật, tức là chưa có trường hợp nào Tòa án ấn định thời gian thử thách của người phạm tội được hưởng án treo dưới 01 năm hoặc trên 05 năm so với quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS. Tất cả các VAHS mà người phạm tội được hưởng án treo thì đều có thời gian thử thách đối với họ thấp nhất là 01 năm và cao nhất là 05 năm.
Tuy nhiên, khi giải quyết một VAHS cụ thể có bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam nhưng trong quá trình xét xử được hưởng án treo thì trong một số trường hợp Tòa án đã vận dụng không đúng tinh thần hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, theo các văn bản hướng dẫn thi hành của TAND tối cao nên tính không đúng về thời gian thử thách.
Điển hình như trường hợp sau đây:
Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 18-6-2018, trên đường liên xã thuộc ấp Phước Bình B, xã Phước Thạnh, huyện Gò Dầu, Phạm Trung Chinh đã sử dụng bia có nồng độ cồn trong máu là 266,592mg/100ml máu, không có giấy phép lái xe nhưng vẫn điều khiển xe môtô biển số 53X2-9121 chuyển hướng qua đường va chạm với xe môtô biển số 66L4-8839 do anh Phạm Vũ Hảo điều khiển, dẫn đến anh Hảo chết do sốc đa chấn thương. Chinh bị Công an huyện Gò Dầu tạm giam 1 tháng sau đó thay đổi biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú.
TAND huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Trung Chinh (Tèo) 02 năm tù cho hưởng án treo (khấu trừ thời gian tạm giữ tạm giam là 01 tháng). Thời gian thử thách 03 (ba) năm 11 (mười một) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Bản án số 93/2020 HS-ST ngày 29/09/2020 của TAND huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh).