Quy Định Về Thời Gian Thử Thách Và Cách Tính Thời Gian Thử Thách Của Án Treo

Theo Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo, có hiệu lực áp dụng từ 01/7/2018, người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:

Thứ nhất: Bị xử phạt tù không quá 03 năm

Mức hình phạt tù là căn cứ đầu tiên để TA xem xét cho người bị kết án tù có được hưởng án treo hay không. Người bị áp dụng hình phạt tù không quá 03 năm, không phân biệt tội danh gì thì có thể được xem xét cho người đó hưởng án treo; trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội danh mà khi tổng hợp hình phạt không quá 03 năm tù thì cũng có thể cho người đó hưởng án treo (đối với người chưa thành niên).

Thứ hai: Có nhân thân tốt.

Được coi là người có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội đó chấp hành đúng, đầy đủ chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ khác của công dân ở nơi người đó cư trú, làm việc.

Đối với người phạm tội đã bị kết án nhưng không thuộc trường hợp được coi là có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội hiện tại đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mới thực hiện lần này thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể xem xét cho hưởng án treo.

Đánh giá điều kiện về nhân thân có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cho hưởng án treo bởi điều kiện này giúp chúng ta nhận biết được người phạm tội có thể tự cải tạo, giáo dục trong môi trường bình thường hay cần phải cách ly mới cải tạo, giáo dục được.

Ngoài ra, khi xem xét về nhân thân của người phạm tội cần xét toàn diện tất cả các yếu tố thuộc về nhân thân như trình độ văn hóa, giới tính, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình… đồng thời kết hợp với thái độ của họ sau khi phạm tội và đối chiếu với yêu cầu phòng ngừa chung trong phòng ngừa tội phạm để xem có cần phải bắt họ chấp hành hình phạt tù hay không. Những người phạm tội có nhân thân tốt, phạm

tội lần đầu thuộc tội phạm ít nghiêm trọng, sau khi thực hiện hành vi phạm tội có thái độ ăn năn hối lỗi và thành khẩn nhận tội thì có nhiều khả năng tự cải tạo hơn các đối tượng khác, nên cần được xem xét để cho hưởng án treo.

Thứ ba: Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng TNHS, trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 và không có tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng TNHS thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng TNHS từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Quy định rò ràng về số tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS như trên sẽ là căn cứ hoàn chỉnh để HĐXX căn cứ vào những tình tiết cụ thể xem xét cho người phạm tội có được hưởng án treo hay không.

Thứ tư: Có nơi cư trú rò ràng hoặc có nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.

Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh - 4

Nơi cư trú rò ràng của người phạm tội là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định chính xác cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên, liên tục sau khi được hưởng án treo.

Nơi làm việc ổn định của người phạm tội là nơi người hưởng án treo làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định tuyển dụng của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Thứ năm: Xét thấy không cần bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù nếu bản thân họ có khả năng tự cải tạo và việc cho người phạm tội hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không làm cho tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội của địa phương nơi họ cư trú bị ảnh hưởng.

Không cần thiết bắt chấp hành hình phạt tù ở đây có nghĩa là nếu không cần phải chấp hành hình phạt tù, không cần phải cách ly người phạm tội khỏi đời sống xã hội hàng ngày thì cũng có thể cải tạo, giáo dục được người phạm tội, không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không ảnh hưởng xấu cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.

Ngoài ra, Toà án phải xem xét thêm yêu cầu của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đối với từng loại tội phạm cụ thể trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, từng khu vực tương ứng, xem có cần thiết phải bắt người phạm tội chấp hành hình phạt tù hay không. Trong trường hợp người bị kết án đã hội đủ các điều kiện cho hưởng án treo nêu trên nhưng do yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm tại địa phương hay trong khu vực thì để kịp thời răn đe, giáo dục, ngăn chặn loại tội phạm này trên địa bàn, vì yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương hay tại khu vực thì Tòa án có thể quyết định không cho người bị kết án hưởng án treo mà cần thiết phải bắt họ chấp hành hình phạt tù giam.

Ngược lại, nếu xét thấy người bị kết án có nơi cư trú ổn định, có nhân thân tốt, bản thân họ là người thực sự có khả năng tự lao động, tự cải tạo để hoàn lương ngay chính tại gia đình, tại cộng đồng trong môi trường xã hội cụ thể, không có nguy cơ tái phạm bởi tính chất hành vi phạm tội, tính chất loại tội phạm mà họ đã thực hiện cũng như các ảnh hưởng không tốt của môi trường sống xung quanh, mà TA xét thấy không cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù thì xem xét cho người phạm tội được hưởng án treo khi có đủ các căn cứ khác theo quy định.

1.2.2. Quy định về thời gian thử thách và cách tính thời gian thử thách của án treo

Khoản 1 Điều 65 BLHS quy định: Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì TA cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

Như vậy, khi quyết định cho người bị phạt tù được hưởng án treo, Toà án đồng thời phải ấn định một thời gian thử thách nhất định đối với họ là từ 1 năm đến 5 năm.

Thời gian thử thách là thời gian người phạm tội được hưởng án treo được giao cho cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc cư trú để theo dòi, giám sát, giáo dục. Đó là ràng buộc pháp lí đối với người bị án và để cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm kiểm tra kết quả sự tự cải tạo của người này. Đây là thời gian để khẳng định điều kiện “không phạm tội mới” của người phạm tội

có thỏa mãn hay không từ đó cho phép được miễn chấp hành hình phạt tù hay buộc phải chấp hành hình phạt đã tuyên đó. Cụ thể: người được hưởng án treo chỉ được miễn chấp hành hình phạt tù nếu trong thời gian thử thách không phạm tội mới. Trái lại, họ phải chấp hành hình phạt tù nếu phạm tội mới trong thời gian này.

Thời gian thử thách được quy định trong luật là từ 1 năm đến 5 năm. Khi áp dụng cho trường hợp cụ thể, thời gian thử thách không được ngắn hơn mức hình phạt tù đã tuyên (trong thực tế, thời gian thử thách thường là dài hơn mức hình phạt tù đã tuyên). Thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên Bản án hoặc Bản án đầu tiên cho hưởng án treo (trong trường hợp có nhiều Bản án đều cho hưởng án treo).

Điều 5 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày15/5/2018 của HĐTP TAND tối cao hướng dẫn xác định thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo như sau:

1. Trường hợp TA cấp sơ thẩm cho người phạm tội hưởng án treo, bản án đó không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.

2. Trường hợp TA cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, TA cấp phúc thẩm cũng cho người phạm tội hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.

3. Trường hợp TA cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, TA cấp phúc thẩm cho người phạm tội hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm.

4. Trường hợp TA cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, TA cấp phúc thẩm không cho người phạm tội hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy Bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại và TA cấp phúc thẩm cho người phạm tội hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

5. Trường hợp TA cấp sơ thẩm, TA cấp phúc thẩm cho người phạm tội hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy Bản án sơ thẩm, Bản án phúc thẩm để điều tra hoặc xét xử lại và sau khi xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại, TA cấp sơ thẩm, TA cấp phúc thẩm vẫn cho người phạm tội hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần đầu.

6. Trường hợp TA cấp sơ thẩm không cho người phạm tội hưởng án treo, Bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm sửa Bản án sơ thẩm cho người phạm tội hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực.

7. Trường hợp TA cấp sơ thẩm, TA cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm sửa Bản án phúc thẩm cho người phạm tội hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực.

8. Trường hợp TA cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, TA cấp phúc thẩm không cho người phạm tội hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy Bản án phúc phẩm, giữ nguyên Bản án sơ thẩm hoặc Hội đồng giám đốc thẩm sửa Bản án phúc thẩm cho người phạm tội hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.” [14, tr 3-5].

1.2.3. Quy định về áp dụng hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo

Tòa án có thể quyết định áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội được hưởng án treo nếu trong điều luật áp dụng có quy định về hình phạt bổ sung. Mà theo quy định tại Khoản 2 Điều 32 BLHS thì hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất khi không áp dụng là hình phạt chính.

Tức là người phạm tội có thể phải chịu các hình phạt bổ sung đi kèm với hình phạt chính theo quy định của pháp luật hình sự. Trong trường hợp người được hưởng án treo phải chịu hình phạt bổ sung theo quy định của BLHS thì thời hạn chấp hành loại hình phạt bổ sung đối với họ có thời hạn được tính từ ngày tuyên Bản án đầu tiên cho hưởng án treo mà có hình phạt bổ sung.

1.2.4. Quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp người đang chấp hành án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách

Tại Khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành, có hướng dẫn:

Trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội phạm mới và tổng hợp với hình phạt tù của Bản án trước theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể như sau:

Việc tổng hợp hình phạt đối với hình phạt chính theo các nguyên tắc sau:

Một là: Nếu các hình phạt đã tuyên đối với người phạm tội cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung áp dụng với họ không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn.

Hai là: Nếu các hình phạt đã tuyên đối với người phạm tội là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt áp dụng với họ như sau: hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung.

Ba là: Nếu hình phạt đối với người phạm tội nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung áp dụng cho họ là tù chung thân;

Bốn là: Nếu hình phạt đối với người phạm tội nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung áp dụng cho họ là tử hình;

Năm là: Phạt tiền đối với người phạm tội không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;

Sáu là: Trục xuất đối với người phạm tội không tổng hợp với các loại hình phạt khác;

Đối với hình phạt bổ sung: Nếu các hình phạt đã tuyên đối với người phạm tội là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung. Nếu các hình phạt đã tuyên đối với người phạm tội là khác loại thì họ phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.

Việc tổng hợp hình phạt của nhiều Bản án được tính như sau:

Trường hợp một người đang phải chấp hành một Bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có Bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó tổng hợp hình phạt của hai Bản án. Thời gian người phạm tội

đã chấp hành hình phạt của Bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung đối với họ.

Đối với người đang phải chấp hành một Bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của Bản án trước rồi tổng hợp hình phạt của cả hai bản án với nhau.

Nếu trong trường hợp người phạm tội đã bị tạm giam, tạm giữ trong thời gian điều tra sau đó được thay đổi biện pháp ngăn chặn thành cấm đi khỏi nơi cư trú và trong khi xét xử Tòa án tuyên hình phạt tù cho hưởng án treo thì thời gian bị tạm giam, tạm giữ được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. [30]

1.2.5. Quy định về rút ngắn thời gian thử thách án treo

Xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo là việc Tòa án quyết định cho người bị kết án tù nhưng được hưởng án treo chấp hành thời gian thử thách với mức ít hơn mức thời gian thử thách của Bản án đã tuyên, khi có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Đây là chính sách hình sự thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng, nhân văn của pháp luật hình sự nước ta, là động lực khích lệ, động viên những người lầm lỡ tích cực học tập, rèn luyện sửa chữa lỗi lầm, sống có ích cho gia đình và xã hội.

Thực hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước, theo pháp luật hiện hành, người bị kết án phạt tù cho hưởng án treo có thể được Tòa án quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt được quy định tại Điều 63 BLHS, Điều 77 Luật Thi hành án hình sự, Thông tư số 09/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 16/8/2012; người được hưởng án treo có thể được Tòa án rút ngắn thời gian thử thách theo quy định tại Điều 65 BLHS, Điều 66 Luật Thi hành án hình sự, Thông tư số 08/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 14/8/2012 và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS về án treo. Cụ thể quy định về xét giảm thời gian thử thách của án treo, giảm thời hạn án phạt cải tạo không giam giữ được quy định như sau:

Thứ nhất: Các quy định về điều kiện và mức rút ngắn thời gian thử thách của án treo được quy định tại Điều 4 của Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT- BCA-

BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 14/8/2012 của Bộ Công an, Bộ Quốc Phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; điều 8 Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn cụ thể về rút ngắn thời gian thử thách của án treo như sau:

Người được hưởng án treo có thể được TAND cấp huyện quyết định rút ngắn thời gian thử thách khi có đủ điều kiện sau:

Một là: Người phạm tội đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách của án treo;

Hai là: Người phạm tội có nhiều tiến bộ, được thể hiện bằng việc trong thời gian thử thách thực hiện nghiêm túc, đầy đủ nghĩa vụ của người được hưởng án treo tại địa phương nơi cư trú; chấp hành đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế nơi làm việc; tích cực lao động, học tập và sửa chữa lỗi lầm; thực hiện đầy đủ các hình phạt bổ sung cũng như thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ khác theo quyết định của Bản án.

Ba là: Được Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục đối với người được hưởng án treo đề nghị rút ngắn thời gian thử thách bằng văn bản.

Bốn là: Người được hưởng án treo trong vòng 1 năm chỉ được rút ngắn thời gian thử thách một lần từ 1 tháng đến 1 năm. Người được hưởng án treo có thể được xem xét rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thực tế chấp hành thời gian thử thách là ba phần tư thời gian thử thách TA đã tuyên.

Trường hợp người được hưởng án treo lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và có đủ điều kiện nêu trên thì có thể được TA ra quyết định rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại.

Trường hợp người được hưởng án treo đã được cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo, nhưng lại không được TA chấp nhận, nếu sau đó người được hưởng án treo có nhiều tiến bộ mới thì Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát giáo dục người được hưởng án treo tiếp tục đề nghị rút ngắn thời gian thử thách cho họ.

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí