Một Số Giải Pháp Hạn Chế Và Phòng Ngừa Rủi Ro Tín Dụng‌


3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ VÀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG‌


3.2.1. Điều chỉnh chính sách tín dụng:‌

Hoàn thiện cơ chế phân cấp và uỷ quyền: việc phân cấp và ủy quyền phải đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật và chế độ của ngân hàng về hoạt động tín dụng, đảm bảo an toàn, chất lượng và hiệu quả; phải xác định quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cấp điều hành trong hoạt động tín dụng; và phải phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị, phù hợp với năng lực của người được phân cấp, uỷ quyền. Để đạt được mục tiêu trên có thể căn cứ vào các tiêu chí như năng lực của Chi nhánh (Ban lãnh đạo, cán bộ tín dụng, dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn của Chi nhánh…); mức độ rủi ro của các dự án (số vốn vay, thời gian vay, địa bàn, ngành nghề…); phân chia thẩm quyền quyết định cho vay của các cấp (Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, Hội đồng tín dụng, Giám đốc Chi nhánh)…

Xây dựng và áp dụng hệ thống giới hạn tín dụng: Để hạn chế rủi ro tín dụng, ngân hàng cần xây dựng và áp dụng hệ thống giới hạn tín dụng đối với một dự án; giới hạn cho vay đối với một khách hàng và một nhóm khách hàng liên quan theo quy định tại Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN; giới hạn cho vay đối với từng ngành nghề, lĩnh vực; khu vực địa lý.

Tín dụng là hoạt động lớn và quan trọng của ngân hàng, nên cần rõ ràng, được xây dựng và hoàn thiện qua thời gian. Hiện nay tại một số ngân hàng Việt Nam, chính sách tín dụng chưa xuyên suốt, là các chỉ đạo rời rạc đối phó với tình thế. Chính sách chưa lập danh mục cho vay/đầu tư sẽ thực hiện, quy mô khoản vay, các khách hàng mục tiêu có thể cho vay, bố trí phương tiện tốt và phân công người theo dõi các món đã cho vay….

Hoạt động quản lý tín dụng phải đảm bảo các hạn mức an toàn như hệ số CAR, hệ số sử dụng nguồn vốn huy động để cho vay, các hạn mức tối đa khi cho một khách hàng hay một nhóm khách hàng vay tiền, mức phán quyết dành cho từng cấp quản lý trong ngân hàng….

Khi giao chỉ tiêu cho vay cho cấp thừa hành, phải lưu ý đến bối cảnh vĩ mô của đất nước trong từng thời kỳ cũng như tầm quản trị của người thực hiện. Không thể


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

ấn chỉ tiêu tăng dư nợ 20% so với kỳ trước khi Nhà nước khống chế tăng trưởng tín dụng 12%. Cách áp đặt như thế tạo áp lực ngầm xúi người thừa hành che đậy rủi ro tín dụng cho qua việc. Không thể giao cho một sinh viên mới ra trường quản lý hàng trăm tỷ đồng dư nợ để vừa làm vừa học, tiềm ẩn rủi ro tác nghiệp cộng hưởng với rủi ro tín dụng.

Khi GDP tăng trưởng mạnh, nền kinh tế mở ra nhiều cơ hội kinh doanh, cầu tín dụng tạo áp lực rất lớn với ngân hàng. Để nhanh chóng phục vụ khách vay, tận dụng thời cơ kiếm lời trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt, ngân hàng có khuynh hướng hạ thấp chuẩn cho vay, là mầm móng của rủi ro tín dụng tiềm ẩn cho tương lai gần. Lúc này, Nhà nước cần chủ động, một mặt khống chế tăng trưởng tín dụng để kiềm chế lạm phát, mặt khác tăng cường kiểm tra kiểm soát tín dụng để giảm thiểu rủi ro.

Ảnh hưởng nhóm yếu tố thuộc đặc điểm ngân hàng đến rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại Việt Nam - 10

Từ lâu, Nhà nước chủ trương phát hành tiền qua con đường tín dụng, xem đó là “lạm phát lành mạnh”. Với đặc thù của nền kinh tế phát triển dựa trên thâm dụng vốn, tăng trưởng tín dụng ở nước ta thường đòi hỏi phát hành thêm tiền vào lưu thông, tạo áp lực lạm phát như chúng ta đã từng trải nghiệm trong quá khứ khi cung tiền vượt quá mức cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế. Đến đỉnh điểm của giai đoạn phát triển, khi nền kinh tế đảo chiều, tiền cho vay ra khó thu về, ngân hàng phải đối phó với nợ xấu tăng nhanh, là rủi ro tín dụng, hậu quả của thời kỳ tín dụng tăng nóng trước đó.

3.2.2. Đa dạng hóa, chuyên môn hóa hoạt động tín dụng:

Trong thời kỳ hội nhập này, việc đa dạng hóa, chuyên môn hóa trong hoạt động tín dụng không những giúp giảm rủi ro tín dụng mà còn giúp ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh trong và ngoài nước.

3.2.2.1. Đa dạng hóa hoạt động tín dụng.

Đa dạng hóa là việc ngân hàng cho vay với nhiều lĩnh vực, ngành nghề, nhiều đối tượng với nhiều hình thức khác nhau. Các NHTM nên đa dạng hóa các dịch vụ tín dụng và đầu tư như: cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, bảo lãnh, bao thanh toán, thấu chi, cho thuê TC, tạm ứng…


Các ngân hàng nên mở rộng mạng lưới bán lẻ tại những địa bàn có tiềm năng kinh tế, các khu du lịch, khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất…. Không được ép các điểm giao dịch thực hiện đầy đủ mọi nghiệp vụ có sẵn, mà chỉ nên triển khai các phần việc nào phù hợp với đặc thù của địa bàn. Việc phát huy thế mạnh tổng hợp của toàn đơn vị phải được đặt trên cơ sở phân công chuyên môn hóa lao động. Không thể phát triển thẻ tín dụng quốc tế ở khu nhà tập thể công nhân lao động hay cho vay hộ nông nghiệp giữa trung tâm Tp. Hồ chí Minh.

Các ngân hàng cần đẩy mạnh thực hiện các hình thức tài trợ, đầu tư theo hướng thị trường; mở rộng cho vay có đảm bảo để hạn chế rủi ro, nhất là rủi ro đạo đức và hạn chế tổn thất, khi rủi ro xảy ra thì cần phải tăng cường mở rộng việc cho vay có tài sản đảm bảo theo hướng: không đồng nhất tất cả các dự án vay vốn cùng chung một điều kiện; yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản đảm bảo tiền vay nếu thấy cần thiết.

3.2.2.2. Chuyên môn hóa hoạt động tín dụng.

Từ nhiều thập niên trước, người ta đã từ bỏ quan điểm NHTM chuyên doanh để ngã theo quan điểm NHTM đa năng, kinh doanh đa lĩnh vực. Sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vừa rồi, một số tập đoàn tài chính-ngân hàng lớn bị xóa tên

– sáp nhập hay mua lại – vì vỡ nợ. Một số đơn vị khác phải bán bớt mảng đầu tư tài chính, quay về với hoạt động NHTM thuần túy, để có tiền bù đắp tổn thất về tín dụng. Trong khi đó, tại Việt Nam, nhiều người còn vọng tưởng đến mô hình tập đoàn tài chính-ngân hàng bề thế.

Mấy năm gần đây, ngân hàng rất khó huy động nguồn vốn trung dài hạn trong khi nhu cầu cho vay đổi mới trang thiết bị, cải tiến công nghệ, mở rộng, hợp lý hóa sản xuất trong nền kinh tế rất lớn. Cung không thỏa mãn nổi cầu; việc dùng một phần nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn, biện pháp tình thế tuy chưa phạm quy, nhưng đẩy ngân hàng vào rủi ro tín dụng (cụ thể là rủi ro kỳ hạn) sẽ dẩn đến rủi ro thanh khoản như mọi người từng chứng kiến trong vài năm trước.

Việc chuyên môn hóa hoạt động ngân hàng, trong đó chủ lực là hoạt động tín dụng, vẫn có trong thực tế dù chưa được công khai thừa nhận, tùy thuộc vào kỹ


năng chuyên môn, các mối quan hệ xã hội và định hướng kinh doanh của các nhà quản trị điều hành ngân hàng. Mọi người đều biết đến Agribank chuyên phục vụ nông nghiệp và nông thôn, Vietcombank hay Eximbank chuyên kinh doanh ngoại tệ, tài trợ xuất nhập khẩu và kinh doanh thẻ, Ngân hàng Đại Tín đổi tên là Ngân hàng Xây dựng… những chuyên doanh gắn liền với thương hiệu. Lịch sử có thể lặp lại theo chu kỳ xoắn ốc.

Nếu hiểu theo nghĩa, trước mắt, ngân hàng thương mại với nguồn vốn huy động ngắn hạn chỉ nên tập trung cho vay sản xuất kinh doanh, sinh hoạt tiêu dùng ngắn hạn, việc chuyên môn hóa tín dụng có giúp hạn chế phần nào rủi ro tín dụng. Về phần còn lại, rủi ro tín dụng luôn gắn liền với đặc thù ở từng lĩnh vực ngành nghề, như trong cho vay tài trợ ngoại thương, rủi ro tín dụng có thể cộng hưởng với rủi ro hối đoái, rủi ro thị trường cùng rủi ro quốc gia.

3.2.3. Nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin tín dụng:

Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro. Để có thể triển khai có hiệu quả các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng thì ngân hàng phải xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro thông qua việc tăng cường thu thập thông tin về khách hàng, dự án, thông tin về kinh tế - xã hội; ngành hàng, thị trường … thông qua các kênh thông tin khách nhau; đồng thời phải sàng lọc, xử lý và lưu trữ thông tin cho khoa học, và phải tăng cường đầu tư nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin, các phần mềm nghiệp vụ và khẩn trương thực hiện tốt các thanh toán cho khách hàng.

Thông tin giúp NHTM rất nhiều để có quyết định tín dụng đúng đắn. Hệ thống thông tin tín dụng bao gồm nguồn thông tin nội bộ cho biết về lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng. Nguồn thông tin từ bên ngoài giúp hiểu thêm về tình hình hoạt động thực tế cùng khả năng tài chính của khách hàng, tài sản bảo đảm cho món vay….Ngân hàng cần nắm bắt thêm thông tin kinh tế vĩ mô, các dự báo về tương lai của mỗi ngành nghề.

Trong thực tế, các báo cáo tín dụng từ chi nhánh gửi về hội sở thường chậm trễ, sai sót. Ngân hàng nào triển khai tốt hệ thống ngân hàng lõi (core banking) cho


phép giao dịch trực tuyến và xử lý tập trung có thể tổng hợp nhanh thông tin tín dụng nội bộ, còn các đơn vị chưa hiện đại hóa xong đành chấp nhận tình trạng cung cấp thông tin chậm trễ với sai lệch.

Các NHTM gần đây mới chú trọng đến việc xếp hạng tín dụng các khách hàng theo mô hình do các Công ty Kiểm toán nước ngoài tư vấn giúp đở thiết lập. Họ rất ít quan tâm đến việc xếp hạng các tổ chức tín dụng trong hay ngoài nước để chuẩn bị tốt cho quan hệ đại lý trước mắt và sau này. Có một nghịch lý đáng xem xét là trong lúc các ngân hàng chê trách thông tin tín dụng của Trung tâm Rủi ro C.I.C. còn thiếu sót, bản thân họ không hợp tác báo cáo trung thực diễn biến các hoạt động tín dụng tại chính cơ sở của họ. Họ ngại để các ngân hàng khác nhất là Thanh tra NHNN biết được hoạt động tín dụng với chất lượng không tốt của bản thân họ.

Để nâng cao chất lượng thông tin tín dụng, các nhân viên tín dụng không nên chỉ lấy thông tin một chiều từ phía khách hàng cung cấp có thể thiếu chính xác, thiếu khách quan, lại không đầy đủ. Việc đến thăm giúp vừa tạo mối liên hệ, vừa quan sát trực tiếp tình hình hoạt động của khách hàng, đồng thời tiếp cận luôn với những người thường xuyên giao dịch với họ. Các thông tin này chỉ mang tính tham khảo thêm.

3.2.4. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát các món cho vay.

Đây là một giải pháp cơ bản, tuy không mới nhưng, vẫn cứ phải nói đến khi chất lượng kiểm tra kiểm soát chưa đạt chất lượng như mong muốn. Hơn nữa, khiếm khuyết về chất lượng kiểm tra, kiểm soát không chỉ là nét riêng của Việt Nam. Trên khắp thế giới, trong các vụ sụp đổ ngân hàng, đặc biệt là trong đợt khủng hoảng tài chính vừa qua khởi nguồn từ nước Mỹ có sự buông lỏng, chưa tròn trách nhiệm của khâu kiểm tra, kiểm soát.

Ngoài khâu tự kiểm soát từ nội ngân hàng, việc kiểm tra khoản vay bao gồm việc kiểm toán định kỳ bắt buộc của Nhà nước, của các đơn vị kiểm toán quốc tế độc lập, các đợt thanh tra của NHNN. Việc kết hợp tốt 3 loại kiểm tra trên giúp ngân hàng giảm rủi ro tín dụng một cách hữu hiệu qua việc phát hiện sớm những khoản cho vay có vấn đề và tìm cách giải quyết.


Dư luận hay thắc mắc vì sao bao nhiêu vụ thất thoát kinh khủng cứ như đột ngột nổ ra một cách vô lý khó hiểu vì nó đã phải manh nha tích tụ qua thời gian. Trong vấn đề này, có sự tiếp tay vô tình hay cố ý của các vị thanh kiểm tra thờ ơ, thiếu trách nhiệm hay thiếu liêm khiết. Các công ty kiểm toán dù là quốc tế cũng chỉ là doanh nghiệp; nếu phát hiện khả năng tổn thất, trong phạm vi chức năng nghề nghiệp, họ phạm giữ bí mật cho đơn vị bị kiểm toán, khác với chức năng của Kiểm toán Nhà. Trong kết luận kiểm toán thường kèm theo vô số khoản dự phòng miễn trừ mà các ngân hàng được kiểm toán thường bỏ qua (họ chỉ công bố ngắn gọn là ngân hàng chúng tôi đã được Công ty XXX kiểm toán xong kèm theo con dấu và chữ ký của Công ty XXX ở trang cuối của báo cáo) như một thủ tục hành chính đơn thuần.

Các nghiên cứu hay báo cáo thường đề nghị nâng cao năng lực chuyên môn của bộ phận kiểm toán kiểm soát nội bộ trong ngân hàng. Đây chỉ mới là điều kiện cần. Khi nhân sự ở bộ phận này còn do lãnh đạo chi nhánh đánh giá về chất lượng chuyên môn và trả lương, họ khó phanh phui các sai phạm của lãnh đạo về mặt tín dụng. Một vị trí công việc chịu nhiều áp lực tâm lý như vậy không thể hấp dẩn người thực sự trung thực, tâm huyết và có năng lực. Đây mới là điều kiện đủ để người kiểm toán, kiểm soát nội bộ hoàn thành tốt chức trách của mình.

3.2.5. Cải tiến cơ chế quản lý tín dụng.‌

Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Hệ thống này là một phương pháp chấm điểm nhất quán dựa trên các chỉ số tài chính và các nhân tố phi tài chính trong hoàn cảnh thực tế hiện tại của ngân hàng theo các loại hình khách hàng khác nhau nhằm đánh giá rủi ro liên quan đến khách hàng vay. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tối thiểu phải bao gồm: (i) Các cơ sở pháp lý liên quan đến thành lập và ngành nghề kinh doanh của khách hàng; (ii) Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp liên quan đến tình hình kinh doanh, tài chính, tài sản, khả năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết;

(iii) Uy tín với các tổ chức tín dụng đã giao dịch trước đây; (iv) Các tiêu chí đánh giá khách hàng chi tiết, cụ thể, có hệ thống (đánh giá yếu tố ngành nghề, địa phương) trên cơ sở đó xếp hạng cụ thể đối với khách hàng. Kết quả xếp hạng tín


dụng nội bộ là cơ sở để NHTW xác định giới hạn tín dụng, xác định các điều kiện tín dụng thích hợp với khách hàng; tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định.

Cải tiến cơ chế quản lý tín dụng tức là tinh gọn bộ máy gọn nhẹ nhưng vẫn hoạt động hiệu quả, linh hoạt. Hiện nay, tại các NHTM, các bộ phận tác nghiệp chưa phối kết hợp tốt với nhau, phân công phân nhiệm cho cá nhân, bộ phận còn chồng chéo, chưa rõ ràng.

Nếu để chính cán bộ tín dụng vừa cho vay vừa kiểm tra món vayvừa giải ngân, sẽ khó đạt mức khách quan như mong muốn. Ngân hàng sẽ khó phát hiện tình trạng cấu kết móc ngoặt giữa khách hàng với cán bộ tín dụng để giải quyết cho vay các hồ sơ không đũ chuẩn. Nhưng nếu để bộ phận khác đi kiểm tra việc sử dụng vốn vay, ngân hàng cũng ngại làm phật ý khách hàng khi cho phổ biến các thông tin riêng tư của họ.

Trước mắt, ngân hàng cần tách bạch các chức năng tiếp thị, quan hệ khách hàng với thẩm định rủi ro, quyết định tín dụng với theo dõi chất lượng các món cho vay, đồng thời, phân định rõ trách nhiệm cho các phòng ban, cá nhân, đảm bảo khách quan và độc lập. Hành động này, bước đầu sẽ mang lại một số hiệu quả nhất định, nhưng sẽ sớm bị vô hiệu. Cán bộ ngân hàng dù ở bộ phận nào vẫn mang các tố chất ngang nhau. Sự cấu kết với khách hàng sẽ mang tính hệ thống – không còn đơn lẻ - sẵn sàng che chắn bọc lót cho nhau, lại càng nguy hiểm và khó phát hiện hơn.

Việc chầm điểm, đánh giá, xếp hạng tín nhiệm khách hàng vay vốn tuy mang tính định lượng, minh bạch, khách quan nhưng đôi khi quá máy móc loại bỏ đáng tiếc khách hàng tiềm năng tốt. Mô hình nào dù khoa học đến đâu, về thống kê học, chỉ đảm bảo độ chính xác đến mức 95% là tốt, tức là vẫn còn 5% sai lầm loại bỏ khách hàng tốt. Hơn nữa, trong thực tế, nhiều khi nhu cầu vay của họ khá đơn giản, giá trị không lớn, thủ tục đánh giá, chấm điểm, xếp hạng rườm rà kéo dài làm nản lòng khách hàng khiến ngân hàng bị vuột mất cơ hội kinh doanh kiếm lời.


3.2.6. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng:‌

Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố đảm bảo cho sự thành công của việc thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng. Để có thể tạo dựng nguồn nhân lực đủ mạnh, đáp ứng được yêu cầu, nhất là trong công tác quản lý rủi ro tín dụng, ngân hàng phải tập trung giải quyết một số nhiệm vụ trọng tâm: chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tín dụng; có chính sách đào tạo và đãi ngộ hợp lý thông qua chế độ tiền lương, tiền thưởng, chế độ đào tạo, cơ hội thăng tiến… đối với những cán bộ làm công tác tín dụng, thẩm định, quản lý rủi ro. Đồng thời, ngân hàng cũng cần phải ban hành qui định liên quan đến vấn đề trách nhiệm cá nhân (nhất là trách nhiệm vật chất) trong việc để xaỷ ra rủi ro gây tổn thất về tài sản cho ngân hàng.

Con người luôn đóng vai trò quyết định đến sự thành bại của NHTM, nhất là trong hoạt động tín dụng. Những cán bộ tín dụng sẽ quyết định chất lượng cho vay, nếu phát hiện kịp thời các dấu hiệu rủi ro, từ đó có biện pháp xử lý kịp thời, giảm thiểu rủi ro, nâng cao lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng, thậm chí còn nâng cao hình ảnh của ngân hàng trên thị trường tài chính. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng của cán bộ tín dụng là việc làm thường xuyên và lâu dài, vừa nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, vừa bồi dưỡng về đạo đức, về sự tâm huyết, nhiệt tình, tận tâm với công việc.

Đất nước đang chuyển mình vươn lên, ngân hàng liên tục tiếp cận công nghệ mới để rút ngắn dần khoảng cách với thế giới. Ngân hàng cần thường xuyên tổ chức tập huấn đào tạo, đào tạo lại cho cả người cũ lâu năm lẫn nhân viên mới tuyển dụng; các buổi tập huấn cần được phân chia thành nhiều cấp độ khác nhau tương ứng với trình độ chuyên môn của nhân viên. Ngoài ra, cần tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, chia sẻ kinh nghiệm… giúp các nhân viên vừa trao đổi nghiệp vụ, vừa cập nhật tri thức mới để nâng cao hiểu biết cùng kỹ năng chuyên môn.

Lãnh đạo ngân hàng cần nhận thức rằng muốn trẻ hóa đội ngủ, đặc biệt là đội ngủ làm tín dụng, để tạo sức bật mạnh cho toàn đơn vị, phải chấp nhận người thiếu kinh nghiệm. Đất nước hiện tại chưa đủ khả năng đào tạo người toàn tài vừa trẻ vừa đủ bản lĩnh và giàu kinh nghiệm làm việc.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/05/2022