Quy Định Người Vay Phải Mua Bảo Hiểm Trên Các Khoản Tín Dụng.‌


3.2.7. Giám sát, kiểm tra khoản cho vay:‌

Nâng cao chất lượng công tác thẩm định năng lực chủ đầu tư, thẩm định dự án vay vốn. Công tác thẩm định cần được thay đổi căn bản trên cơ sở việc quản lý tín dụng theo khách hàng chứ không phải chỉ quản lý theo dự án. Để nâng cao chất lượng thẩm định, cần bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm trong công tác thẩm định, thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận và khoá học về thẩm định dự án để cập nhật thông tin, cách thức thẩm định. Đồng thời khi thẩm định cần chú trọng công tác thu thập, xử lý thông tin về dự án, khoản vay; và cần đặc biệt lưu ý việc thẩm định năng lực, uy tín, khả năng tài chính của khách hàng/chủ đầu tư…

Tăng cường kiểm tra giám sát, quản lý nợ vay. Việc tăng cương kiểm tra, giám sát, quản lý nợ vay là biện pháp quan trọng nhằm hạn chế rủi ro tín dụng đối với ngân hàng, nhất là rủi ro đạo đức khi khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích. Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi tiền vay phải được chuyển trực tiếp cho đơn vị thụ hưởng. Việc giải ngân phải được thực hiện qua hệ thống thanh toán của ngân hàng; định kỳ (quí) phải phân tích, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp; tăng cường kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, tài sản đảm bảo tiền vay và tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, đặc biệt khách hàng có nợ quá hạn và lãi treo.

Sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng phải giám sát, theo dõi chặt món đã cho vay cho đến khi thu dứt nợ để có biện pháp xử lý kịp thời lúc chuyển biến xấu.

Như trên đã phân tích, khi kiểm tra kiểm soát tốt, cán bộ tín dụng có thể sớm phát hiện ra những khoản đã cho vay có vấn đề dựa vào các dấu hiệu như: thanh toán chậm tiền gốc và lãi, nộp chậm trễ bất thường các BCTC định kỳ thể hiện sự lẩn tránh dấu ngân hàng những kết quả tài chính bất lợi. Khi xảy ra những sự việc trên, cán bộ cho vay phải tìm hiểu ngay nguyên do, có thể người vay đang gặp khó khăn tài chính. Tiếp theo, cán bộ cho vay cùng người vay tìm phương án khắc phục kịp thời để ngăn chặn tình hình tiếp tục xấu thêm hầu giảm thiểu tổn thất.


Cán bộ cho vay phải biết phối hợp hành động để bảo vệ cả ngân hàng và người vay khỏi tổn thất như: cơ cấu lại lịch trả nợ phù hợp với thực trạng của khách hàng, tạo điều kiện tốt nhất để khách hàng sớm phục hồi và trả được nợ. Ngân hàng nên biết tự hạn chế can thiệp vào việc quản lý của khách hàng nhất là đối với các doanh nghiệp lớn. Xử lý tài sản đảm bảo chỉ là biện pháp sau cùng, khi mọi cố gắng vực khách vay dậy đều vô vọng.

Việc theo dõi chặt khoản vay có thể sớm giúp phát hiện ra các lỗi cố ý che đậy của người vay như: BCTC, chứng từ, chứng khoán, quyền sở hữu tài sản thế chấp giả mạo, có thể kịp thời ngăn chận khách vay bỏ trốn.

Các chương trình quản lý tín dụng hiện đại có khả năng tự động giúp theo dõi lịch trả nợ gốc và lãi, đồng thời tự động tạo mẫu nhắn tin SMS nhắc khách vay trước 2 tuần lễ để chủ động chuẩn bị. Dù vậy, can bộ theo dõi cũng không được lơ là công việc, ỷ lại vào phần mềm xử lý tự động. Lãnh đạo cũng không nên giao nhiều đầu việc khác cho cán bộ theo dõi nợ, để sau đó, phê bình họ không hoàn thành trách nhiệm chính được giao.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

3.2.8. Quy định người vay phải mua bảo hiểm trên các khoản tín dụng.‌

Để đảm bảo an toàn cho các khoản tín dụng, người ta thường mua bảo hiểm. Rủi ro tín dụng là điều không mong muốn của các bên tham gia khi họ khó lường trước được mọi yếu tố khách quan xảy ra như lạm phát, kinh tế suy thoái….

Ảnh hưởng nhóm yếu tố thuộc đặc điểm ngân hàng đến rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại Việt Nam - 11

Một khách hàng vay rất có uy tín cũng có thể gặp rủi ro tín dụng khi bị chết hoặc tàn phế sau tai nạn đột ngột. Hỏa hoạn, thiên tai có thể làm gián đoạn hoạt động của doanh nghiệp. Trong những trường hợp như vậy, nếu có mua bảo hiểm, Công ty bảo hiểm sẽ trả cho ngân hàng khoản nợ thay cho khách hàng giúp ngân hàng khỏi mất nợ, đồng thời chia sẻ thiệt hại với khách hàng (khách hàng vừa bị tổn thất trong thiên tai còn phải trả nợ cho ngân hàng). Ngân hàng cần xác định các loại hình người vay phải được bảo hiểm.

Bảo hiểm nhân thọ là loại hình ngày càng phổ biến; bảo hiểm sẽ thanh toán nốt số tiền còn nợ ngân hàng khi người vay chết. Giá trị bồi thường theo Hợp đồng Bảo hiểm Nhân thọ cũng được dùng làm tài sản bảo đảm; hợp đồng bảo hiểm là một trái


quyền có thể được chuyển nhượng, ngân hàng có thể đứng hưởng trực tiếp trái quyền này hay được chính thức chuyển nhượng từ người thụ hường của Hợp đồng bảo hiểm.

Khi tham gia tài trợ xuất nhập khẩu, ngân hàng thường buộc lô hàng xuất nhập khẩu phải được bảo hiểm đối với mọi rủi ro. Khi cho vay mua sắm tài sản có giá trị lớn như nhà, xưởng, dây chuyền sản xuất, phương tiện vận chuyển đường dài, có thời gian khai thác khá dài dễ gặp nhiều rủi ro, ngân hàng buộc chủ tài sản phải mua bảo hiểm rủi ro nhằm hạn chế thiệt hại khi phát sinh.

Khi nghi ngờ về khả năng thanh toán của Công ty Bào hiểm, người ta có thể yêu cầu tái bảo hiểm để được yên tâm hơn. Khi rủi ro phát sinh, bên vay, Công ty Bảo hiểm và Công ty Tái bảo hiểm liên đới bồi thường ngay cho ngân hàng. Chi phí điều hành sẽ tăng cao nên khách vay thường né tránh trừ trường hợp kinh doanh xuất nhập khẩu.

Tóm lại, giảm thiểu rủi ro tín dụng, nâng cao khả năng sinh lời của các NHTM không chỉ là mong muốn mà còn là cố gắng nghiên cứu ứng dụng không ngừng của các nhà quản trị ngân hàng. Tác giả mong là các giải pháp trên đây kết hợp với các mô hình lượng hóa rủi ro sẽ giúp NHTM nâng cao năng lực canh tranh trên TTTC.

3.2.9. Nâng cao năng lực tài chính của NHTMVN.

Vốn chủ sở hữu quyết định năng lực tài chính của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn điều lệ, lợi nhuận để lại chưa phân phối, các quỹ được trích lập nhưng chưa sử dụng, trong đó quan trọng nhất là vốn điều lệ vì quy mô của phần còn lại bị khống chế theo luật, không thể tự do duy trì theo ý riêng.

Trước kia, theo hệ số Cooke, vốn điều lệ quyết định mức nguồn vốn tối đa, một ngân hàng được phép huy động. Sau khi trừ ra mức dự trữ bắt buộc cùng mức đảm bảo thanh toán, ngân hàng được phép dùng nguồn vốn huy động còn lại để cho vay. Suy ra, vốn điều lệ càng lớn, ngân hàng càng có khả năng huy động nhiều vốn để cho vay. Ngày nay, theo hệ số C.A.R., vốn điều lệ lớn cho phép tăng tài sản có có sinh lợi, nói khác là tăng mức cho vay. Ngoài ra, vốn điều lệ lớn cho phép ngân hàng tiếp cận khách vay lớn.


Rủi ro tín dụng tăng lên theo khả năng cho vay của ngân hàng. Nếu ngân hàng không phân tán rủi ro tín dụng ra nhiều đối tượng cho vay khác nhau qua việc mở rộng danh mục khách hàng cùng danh mục ngành nghề, mà tập trung vào một nhóm đối tượng, rủi ro tín dụng chỉ có tăng lên nhanh theo khẩu vị rủi ro của người điều hành.

Vì lẽ này, các chuyên gia quốc tế thường khuyên Việt Nam sớm phát triển thêm các dịch vụ phi tín dụng để phá thế độc canh của hoạt động tín dụng, đồng thời phân tán bớt rủi ro tín dụng. Nhưng, phải mất thêm thời gian nữa để khuyến cáo này trở thành hiện thực, vì với đặc thù của một nền kinh tế đang phát triển, Việt Nam đang rất đói vốn. Hơn nữa, Việt Nam lại phát triển kinh tế đất nước dựa trên sự thâm dụng vốn nên tỷ trọng của hoạt động tín dụng trong kinh doanh ngân hàng sẽ giảm rất chậm.

Trong giai đoạn kinh tế hưng thịnh, số vốn điều lệ mới bổ sung tăng thêm chưa sử dụng kịp, thêm nguồn vốn mới huy động vào, tạo áp lực buộc ngân hàng sớm tìm đối tượng cho vay ra để tránh chi phí cơ hội, vô tình phát sinh rủi ro tín dụng tiềm ẩn chờ dịp bộc phát gây tác hại.

Các nhà quản trị ngân hàng thích bổ sung vốn điều lệ dần dần từ lợi nhuận để lại hầu dễ kiểm soát rủi ro tín dụng phát sinh đột biến. Việc tăng nhanh vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành thêm cổ phiếu hay trái phiếu chuyển đổi thường phải kèm theo biện pháp chủ động hạn chế nóng vội tăng trưởng tín dụng một cách hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro. Nâng cao năng lực tài chính không chỉ có khía cạnh tốt đẹp là nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại trên thương trường mà các nhà quản trị còn phải biết tích cực ngăn chận rủi ro tín dụng đi kèm theo. Cho vay ngắn ngày trên thị trường liên ngân hàng hay lướt sóng trên thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán, hoạt động trên thị trường mở (OMO) là các biện pháp ứng phó tạm thời khá đắc dụng, vừa tránh đọng vốn vừa tạo thêm chút thu nhập phụ cho ngân hàng.


3.2.10. Quản lý thật tốt thu nhập-chi phí trong NHTM.‌

Thu nhập-chi phí không chỉ là vấn đề tài chính nội bộ của mỗi ngân hàng. Giá mua bán vốn phản ánh mức độ cạnh tranh trên thị trường vốn cùng sự can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính của Nhà nước như ở Việt Nam. Ngân hàng nào cũng muốn mở rộng chênh lệch giữa hai đại lượng này nhưng không dễ thực hiện. Trong nước, các NHTM thường cạnh tranh nhau theo hai hướng chủ yếu: không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng và theo mức giá hấp dẩn nhất để làm vừa lòng khách hàng. Cuộc cạnh tranh về giá thường âm thầm đẩy ngân hàng vào rủi ro (tín dụng).

Lợi nhuận trong kinh doanh ngân hàng được hình thành từ chênh lệch giữa thu nhập và chi phí hoạt động. Luận văn chỉ phân tích lợi nhuận từ hoạt động tín dụng, là hoạt động chủ lực của NHTM. Dưới áp lực cạnh tranh, ngân hàng không thể giảm việc chi trả lãi huy động vốn, thậm chí trong một số giai đoạn, còn phải chấp nhận vượt trần lãi suất huy động. Ngân hàng phải cố gắng tiết giảm chi phí quản lý điều hành để bù cho phần chi vượt vừa nêu, song chỉ trong một chừng mực hạn chế, do ảnh hưởng đến hiệu năng của bộ máy hoạt động, đến chất lượng dịch vụ cung ứng cùng hình ảnh thương hiệu. Hơn nữa, khi chất lượng tín dụng giảm, việc trích lập dự phòng rủi ro cụ thể sẽ làm tăng chi phí hoạt động.

Để cạnh tranh về giá, ngân hàng hay giảm lãi cho khách vay, chưa kể khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng phải chịu mất trắng lãi cho vay, tức là giảm thu nhập. Chênh lệch thu nhập-chi phí hoạt động của ngân hàng, vì thế càng bị thu hẹp hơn, đến mức nào đó sẽ bị đảo chiều từ số dương (lãi) ra số âm (lỗ) khi thu nhập ít ỏi từ các hoạt động khác không đủ sức bù đắp thâm hụt.


3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHTM VIỆT NAM.‌‌

3.3.1 Kiến nghị với NHNN.‌


3.3.1.1 Kiên quyết buộc các NHTM tuân thủ các quy định về an toàn tín dụng:

Trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro tín dụng và thực hiện nghiêm túc các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Hiện nay, việc phân loại nợ và trích lập, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng được thực hiện theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 22/4/2005. Vài ngân hàng đang hoạt động hiệu quả, ý thức được lợi ích của việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, đã chủ động phân loại nợ theo định lượng kết hợp với định tính mà kết quả phân tích mô hình đã hé lộ ra hiện tượng này. Nhiều ngân hàng khác còn che bớt nợ xấu, ngại việc trích lập dự phòng rủi ro quá lớn làm giảm lợi nhuận thực hiện, hạn chế thành tích của Ban điều hành trước Đại hội cổ đông. Sắp đến, NHNN cần hành động kiên quyết hơn, xem việc đảm bảo an toàn tín dụng là một tiêu chí quan trọng khi tái cấu trúc các NHTM.

3.3.1.2 Nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm Thông tin Tín dụng.‌

Trung tâm thông tin tín dụng là tổ chức chuyên thu thập, cung cấp thông tin về rủi ro tín dụng của các doanh nghiệp; các ngân hàng hay nhà đầu tư phải bỏ tiền mua các thông tin cần nắm bắt.

Hiện nay, NHNNVN có Trung tâm Thông tin Tín dụng CIC, nhưng chỉ cung cấp thông tin sơ sài thiếu cập nhật về các doanh nghiệp có vay vốn, chưa mang lại hiệu quả cao. Các TCTD cần gác lại lợi ích cục bộ, tích cực hợp tác, kịp thời cung cấp đầy đủ thông tin về quan hệ tín dụng với khách hàng, giúp CIC hoàn thành tốt chức trách của mình, vì sự an toàn của cả hệ thống ngân hàng.

Khi kinh tế đất nước phát triển lên với số doanh nghiệp đông hơn sẽ gợi ra ý tưởng kinh doanh thông tin rủi ro luôn cả việc xếp hạng tín dụng doanh nghiệp. Điều này có thể thu hút các tổ chức chuyên nghiệp quốc tế vào cạnh tranh với CIC.


3.3.2 Kiến nghị với Chính Phủ‌‌


3.3.2.1. Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý.

Hiện nay, các NHTMVN đang chịu sự điều chỉnh của luật các tổ chức tín dụng. Sau nhiều năm đi vào hoạt động, luật này có một số điểm không còn phù hợp với sự biến động nhanh chóng của các NHTM nữa.

Nhà nước nên đổi mới và hoàn thiện hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra Nhà nước cũng cần có những biện pháp nhằm đảm bảo môi trường kinh tế ổn định cho hoạt động của các doanh nghiệp và NHTM

3.3.2.2.Chấn chỉnh hoạt động của hệ thống doanh nghiệp‌

Trong vài năm gần đây, hệ thống doanh nghiệp đang góp phần rất lớn trong công cuộc phát triển kinh tế, hoạt động ngày một đi vào nề nếp. Tuy nhiên,vẫn còn tồn tại một số vấn đề nhức nhối trong các doanh nghiệp hiện nay như tình trạng trốn thuế, lậu thuế diễn ra khá phức tạp, các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, kinh doanh chưa bài bản. Điều này khiến cho hoạt động cho vay của NHTM gặp nhiều rủi ro. Vì vậy, trong thời gian tới chính phủ một mặt cần tạo điều kiện, mặt khác chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp đó.

Trước hết, Chính Phủ cần đổi mới trong việc cấp phép kinh doanh đảm bảo các doanh nghiệp phải đủ điều kiện về vốn, năng lực của cán bộ điều hành và phương án kinh doanh, tăng cường công tác kiểm tra giám soát sau khi cấp phép.

Đồng thời, Nhà nước cũng cần tăng cường kiểm toán bắt buộc từ đó phát hiện sai sót, gian lận. Nếu doanh nghiệp làm ăn tốt cần khuyến khích và nhân rộng mô hình, ngược lại cũng cần có thái độ xử lý kiên quyết.

Tuy nhiên,việc quản lý Nhà nước cũng cần đổi mới theo hướng tăng tính tự chủ trong doanh nghiệp không nên can thiệp quá sâu mà chỉ quản lý ở tầm vĩ mô.

3.4 ỨNG DỤNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU


Nhà đầu tư quan tâm đến mức tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng như một yếu tố phụ trong phân tích trước khi quyết định đầu tư, đặc biệt là đối với các ngân hàng có tỷ lệ tăng dư nợ nhanh chóng trong 1-2 năm trước, luôn tiềm ẩn rủi ro


tín dụng cao hơn các đơn vị khác. Theo kết quả nghiên cứu, từ 1 đến 2 năm sau khi tăng trưởng tín dụng cao, rủi ro tín dụng sẽ bộc lộ ra tại các ngân hàng đó (do độ trễ). Nhà đầu tư không tránh khỏi thiệt hại khi quyết định mua chứng khoán của các ngân hàng này.

Bên cạnh đó, quy mô dư nợ và tỷ lệ chi phí so với thu nhập hoạt động cũng cần được xem xét đến. Nghiên cứu cho thấy các ngân hàng có dư nợ lớn hàm chứa rủi ro tín dụng cao hơn các đơn vị có dư nợ thấp hơn. Các ngân hàng lớn thường trải qua giai đoạn tăng trưởng nhanh và có khả năng đã tích lũy nhiều rủi ro tín dụng tiềm ẩn. Tỷ lệ chi phí so với thu nhập trong hoạt động tín dụng thể hiện tính hiệu quả trong kinh doanh của ngân hàng. Nghiên cứu có thấy tỷ lệ này cao cũng sẽ làm rủi ro tín dụng tăng cao khi ngân hàng đó đang cạnh tranh về giá thay cho chất lượng dịch vụ cung ứng.

KẾT LUẬN CHƯƠNG III


Đối với các NHTM thì tín dụng là một hoạt động cơ bản không thể thay thế, tín dụng mang lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng và là hoạt động mà thông qua đó ngân hàng thể hiện tốt chức năng trung gian tài chính của mình. Mặc dù vậy tín dụng lại là hoạt động chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm ẩn mà các nhà quản lí, điều hành ngân hàng có kinh nghiệm nhất cũng không thể dự đoán được hết được.


Rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng, mặc dù, khi xảy ra có thể gây tổn thất cho NHTM nhưng nó có thể coi là một đặc trưng không thể tách rời của hoạt động tín dụng. Do vậy, hạn chế rủi ro tín dụng giảm thiểu tổn thất có thể gặp phải là một hoạt động hết sức quan trọng quyết định tới sự sống còn của các NHTM hiện đại. Đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập toàn cầu hiện nay, chúng ta đã gia nhập WTO, khi mà hàng loạt các quy định pháp luật về ngân hàng đều phải thay đổi cho phù hợp với thông lệ thế giới thì các NHTM càng cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng và ứng dụng tốt các giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng để có thể tự bảo vệ mình trước những rủi ro tiềm ẩn.

Xem tất cả 109 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí