Phương Hướng Phát Triển Công Nghiệp Huyện Tân Uyên

hóa không lành mạnh có chiều hướng gia tăng. Tuy vậy các môn TDTT truyền thống của huyện được tập trung đầu tư và đạt nhiều thành tích cao trong tham gia thi đấu.

2.8. Quy hoạch đất đai để phát triển công nghiệp

2.8.1. Quan điểm phát triển

Công nghiệp là tiền đề để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển công nghiệp theo hướng bền vững, tự chủ, chủ động hội nhập và hội nhập có hiệu quả. Trong quá trình phát triển công nghiệp, lấy việc nâng cao trình độ công nghệ là nhiệm vụ trung tâm, gắn liền với phát triển nguồn nhân lực, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng.

Phát triển công nghiệp trên địa bàn huyện phải gằn với tổng thể phát triển của tỉnh và của cả nước. Đẩy mạnh công nghiệp ở các xã phía Nam của huyện, lấy các khu công nghiệp tập trung làm động lực chính để phát triển, ưu tiên phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.

Phát triển công nghiệp phải gắn liền với phát triển nông nghiệp nông thôn, phân công lại lao động để tạo điều kiện phát triển công nghiệp, tăng cường và cũng cố mối quan hệ công nông.

Huy đông mọi nguồn lực để phát triển công nghiệp, nội lực là chính, ngoại lực cũng quan trọng. Biến tiềm năng thành lợi thế so sánh để phát triển công nghiệp theo hướng sản xuất mặt hàng xuất khẩu và mặt hàng phục vụ thị trường nông thôn.

Đa dạng hóa về quy mô và loại hình công nghiệp, công nghiệp chủ đạo, tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống, công nghiệp gia đình...,khuyến khích công nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp tiên tiến.

Gắn phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường sinh thái.

Phấn đấu rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 3 đến 4 năm so với thời gian của cả nước (năm 2020). Phát triển công nghiệp một cách toàn diện trong cả huyện; lấy phát triển các khu, cụm công nghiệp phía Nam làm động lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa huyện Tân Uyên.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 86 trang tài liệu này.

Ưu tiên phát triển công nghệp nặng, công nghệ kỹ thuật cao, công nghiệp sạch. Tiếp tục phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản, hóa chất, dệt may, da giày. Ổn


Ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến đời sống người dân trồng cao su tại huyện Tân Uyên, Tỉnh Bình Dương - 5

định và phát triển công nghiệp truyền thống sơn mài và sản phẩm vật liệu xây dựng, di dời các cụm công nghiệp gây ô nhiễm ra xa khu dân cư tập trung.

Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp cả trong nước và ngoài nước, đổi mới công nghệ, nâng cao tính cạnh tranh sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hóa.

Cải thiện môi trường đầu tư.

2.8.2. Phương hướng phát triển công nghiệp huyện Tân Uyên

Thực hiện mục tiêu điện khí hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với các ngành cần ít vốn, sử dụng nhiều lao động như chế biến nông sản, thực phẩm, khai thác khoàn sản, vật liệu xây dựng, cơ khí sửa chữa.

Đẩy nhanh chuyển giao công nghệ thích hợp như công nghệ chế biến cao su, hạt điều, trái cây, khoáng sản...

Áp dụng mô hình sản xuất công nông nghiệp kết hợp tại vùng nông thôn, gắn sản xuất với công nghệ chế biến tại các trang trại.


CHƯƠNG III

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


3.1. Mô hình nghiên cứu


Người dân trồng cao su

Đất nông nghiệp giảm Đất công nghiệp tăng

Tái định cư

Hình 3. 1: Mô hình nghiên cứu



Công Nghiệp Hóa – Đô Thị Hóa



Tạo việc làm

Mất nguồn thu từ cây cao su

Mất đất

Thất nghiệp

Nguồn: Đỗ Nguyễn Yến Nhi (2006) Trong những năm gần đây, tiến độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp -

nông thôn trên địa bàn tỉnh được thực hiện khá nhanh. Không chỉ ở thị xã Thủ Dầu Một mà tại các huyện, kể cả những địa bàn vùng sâu, vùng xa như huyện Tân Uyên nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp lần lượt mọc lên. Điều này có nghĩa là ở những nơi ấy phải


chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang công nghiệp. Người dân mất đất, mất cả nguồn thu từ cây cao su, phải chuyển chổ ở, cơ cấu việc làm cũng thay đổi, một bộ phận nhỏ những người trẻ tuổi có trình độ học thì tìm việc làm trong các khu công nghiệp. Số đông còn lại do quen với tác phong nông nghiệp hơn nữa bị giới hạn về trình độ chuyên môn cũng như giới hạn về tuổi tác nên việc chuyển đổi nghề của những đối tượng này rất khó khăn. Vấn đề giải quyết việc làm đối với những đối tượng này trở nên cấp bách hơn bất cứ lúc nào hết nếu không muốn họ trở thành gánh nặng của xã hội.

3.2. Cơ sở lý luận

3.2.1. Các khái niệm liên quan.

Tại điều 4 - Luật đất đai 2003 nêu rõ :

Thu hồi đấtlà việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này.

Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.

Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới.

Người bị thu hồi đất

Theo Nghị định 197/CP của Chính phủ ban hành ngày 03/12/2004 :

Người bị thu hồi đất là tổ chức, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức cá nhân nước ngoài đang sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi.

Người bị thu hồi đất, bị thiệt hại tài sản gắn liền với đất bị thu hồi, được bồi thường đất, tài sản, được hỗ trợ và bố trí tái định cư theo quy định tại Nghị định này.

Thu nhập: Khi xác định tình trạng kinh tế của một người hay của một quốc gia, hai thước đo thường được sử dụng nhiều nhất là thu nhập và tài sản. Thu nhập là số tiền thu được hay tiền mặt mà một người hay một hộ gia đình kiếm được trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng tất cả các khoản thu nhập là thu nhập quốc dân. Phần lớn thu nhập quốc dân là thuộc về lao động, như tiền công và lương tháng, hay


dưới dạng phúc lợi - phần còn lại là các dạng khác nhau của thu nhập từ tài sản: Tiền thuê, lãi ròng, lợi nhuận công ty và thu nhập của người sở hữu cá thể - khoản cuối cùng này chủ yếu bao gồm lợi tức của những người chủ sở hữu và những doanh nghiệp nhỏ.

Thu nhập từ một nền kinh tế thị trường được phân phối cho những người sở hữu các yếu tố sản xuất của nền kinh tế dưới dạng tiền công, lợi nhuận, tiền thuê và tiền lãi. Tất cả mọi người đều cho rằng, khoảng ba phần tư thu nhập quốc dân là từ lao động, trong khi phần còn lại được phân phối như một dạng lợi tức vốn nào đó (Nguyễn Chí Thành-2007)

3.2.2. Chính sách bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi.

Tại điều 42 - Luật đất đai 2003 quy định :

1. Nhà nước thu hồi của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định thì được bồi thường.

2. Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi.

3. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở. Khu tái định cư phải được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.

Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền và được ưu tiên mua hoặc thuê nhà thuộc sở hữu Nhà nước đối với khu vực đô thị; bồi thường bằng đất đối với khu vực nông thôn, trường hợp giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi lớn hơn giá trị đất được bồi thường thì người thu hồi đất được bồi thường bằng tiền đối với phần chênh lệch đó.

3.2.3. Ảnh hưởng của việc thu hồi đất

Khi đất trồng cao su bị thu hồi, đời sống của người dân có nhiều thay đổi. Đầu tiên là mất đất và mất nguồn thu từ cây cao su và hầu hết phải chuyển sang nghề khác hoặc chuyển đến nơi khác làm ăn sinh sống. Như vậy kéo theo việc làm, thu nhập và cơ cấu thu


nhập của người dân cũng thay đổi. Đây cũng chính là yếu tố bị ảnh hưởng nhiều nhất của việc thu hồi đất nói chung đất trồng cây cao su nói riêng. Và có những yếu tố cũng bị ảnh hưởng không kém chính là điều kiện sống và điều kiện sinh hoạt thay đổi.

Những ảnh hưởng tích cực:


Trước hết, việc thu hồi đất nông nghiệp nói chung, đất trồng cao su nói riêng sẽ tạo điều kiện cho các khu công nghiệp, khu đô thi được hình thành từ đó cơ sở hạ tầng sẽ được hoàn thiện hơn, góp phần thu hút vốn đầu tư của nước ngoài cho địa phương, làm cải thiện điều kiện sống và điều kiện sinh hoạt của người dân. Đồng thời,việc thu hồi đất sẽ làm cho cơ cấu ngành cũng thay đổi theo hướng tích cực (tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm dần) phù hợp với định hướng phát triển của đất nước trong công cuộc CNH-HĐH.

Việc thu hồi đất tuy làm cho người dân trồng cao su mất đất, mất nguồn thu từ cây cao su nhưng bù lại người dân được một số tiền đên bù khá lớn để xây dựng nhà cửa, mua sắm, chi tiêu…. Đồng thời có điều kiện đầu tư sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập và ổn định cuộc sống.

Những ảnh hưởng tiêu cực:

Đối với người dân sống nhờ vào cây cao su khi bị thu hồi đất có nghĩa là những hộ dân này mất nguồn thu từ đất, mất nguồn thu do cây cao su mang lại. Họ phải chuyển sang nhề khác, nguồn thu nhập của họ cũng bị thay đổi hoàn toàn. Do trình độ học vấn của những hộ này không cao nên chưa có kế hoạch sử dụng tiền đền bù hợp lý, cũng vì trình độ dân trí thấp và quen với tập quán sinh hoạt từ cây cao su nên khi bị mất đất thì người dân trồng cao su khó tìm được việc làm thích hợp hơn so với khi còn cao su. Từ đó vấn đề việc làm, thu nhập của những hộ dân mất đất trở thành bài toàn khó của xã hội. Không ít hộ khi có tiền đền bù thì sử dụng lãng phí và sinh ra thêm nhiều tệ nạn cho xã hội khi tiền không còn.

3.3. Cơ sở pháp lý

Hiến pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992. Luật Đất Đai năm 2003.


Nghị định 181/2004/NĐ – CP do Chính phủ ban hành ngày 29/10/2004 về hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003.

Thông tư 30/2004/TT – BTNMT của Bộ Tài Nguyên Và Môi Trường ban hành ngày 01/11/2004 về việc hướng dẫn lập, điều hành và thẩm định Quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đai.

Chỉ thị số 32/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 23 tháng 9 năm 1998 về “Công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ đến năm 2010”.

Nghị định 197/2004 của Chính phủ về “Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”.

3.4. Phương pháp nghiên cứu

3.4.1. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp so sánh : là phương pháp được sử dụng lâu đời và phổ biến. So sánh trong phân tích là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiên tượng kinh tế đã được lượng hoá có cùng một nội dung một tính chất tương tự, để xác định xu hướng, mức biến động của các chỉ tiêu. Nó cho phép tổng hợp được những nét chung, tách ra những nét riêng của sự vật hiện tượng được so sánh. Trên cơ sở đó ta đánh giá được các mặt phát triển hay kém phát triển, hiệu quả hay kém hiệu quả.

Phương pháp so sánh tĩnh : là phương pháp so sánh hai đối tượng khác nhau trong cùng một thời điểm. Phương pháp này được áp dụng trong việc so sánh thu thập, chi tiêu, việc làm, đời sống của 2 nhóm đối tượng bị thu hồi đất và không bị thu hồi đất trên địa bàn Huyện trong một khoảng thời gian.

3.4.2. Phương pháp thu thập thông tin

Số liệu thứ cấp lấy từ các phòng ban của Huyện để tìm hiểu thực trạng tổng quan của Huyện. Đồng thời nắm bắt đời sống của người dân trồng cao su bị thu hồi đất hiện nay.

Số liệu sơ cấp bằng cách phỏng vấn ngẫu nhiên 40 hộ trồng cao su bi thu hồi đất hoàn toàn và 30 hộ trồng cao su hiện tại có nguồn thu nhập chủ yếu từ cây cao su. Trong đó 40 hộ bị thu hồi đất được điều tra ngẫu nhiên ở 2 xã Phú Chánh và Tân Hiệp, là 2 xã có nhiều hộ trồng cao su và chịu tác động mạnh mẽ của quá trình thu hồi đất cho các khu


công nghiệp. 30 hộ không bị thu hồi đất nhưng sống nhờ vào cây cao su thì được điều tra ở 2 xã Vĩnh Tân và Bình Mỹ là 2 xã có điều kiện tự nhiên cũng như thổ nhưỡng tương tự như 2 xã bị thu hồi đất.

3.4.3. Phương pháp luận

Sử dụng phương pháp thống kê mô tả về thực trạng về đời sống của các hộ bị thu hồi đât hoàn toàn. Sử sụng phương pháp phân tích tổng hợp số liệu thu thập được từ các nông hộ. So sánh đời sống các hộ bị thu hồi đất hoàn toàn với đời sống các hộ trồng cao su không bi thu hồi đất để thấy được tác động của việc thu hồi đất khi người dân không còn cây cao su nữa.

3.4.4. Phương pháp phân tích

Đa số các đề tài nghiêm cứu về đời sống của nông hộ trước đây luôn lấy các chỉ tiêu so sánh số liệu giữa trước khi có biến động và sau khi có biến động, vì vậy những số liệu này đa phần là những số liệu có được do sự hồi tưởng của người được phỏng vấn, dẫn đến số liệu không chính xác, không phản ánh được thực trạng của địa phương nghiêm cứu. Để tránh những sai sót mà các đề tài trước gặp phải tôi tiến hành nghiêm cứu và phân tích đời sống của của các hộ trên cơ sở sử dụng số liệu hiện tại từ việc phỏng vấn hai đối tượng những hộ trước kia sống dựa vào cây cao su nhưng đã bị thu hồi đất và những hộ đang sống dựa vào cây cao su. Do người dân đều sống nhờ vào cây cao su, cùng sống trên địa bàn huyện có cùng thổ nhưỡng, điều kiện tự nhiên nên sự so sánh này tương đối thích hợp.


Phương pháp tính khấu hao: Cây cao su là cây lâu năm đáng lẽ ra phải tính theo phương pháp dự án cả vòng đời cây cao su nhưng so đề tài chỉ chú trọng phản ánh đời sống hiện tại và tránh những số liệu hồi tưởng không chính xác. Do đó phương pháp khấu hao theo sản lượng được áp dụng để tính khấu hao trong giai đoạn xây dựng cơ bản



Khấu hao/năm =

Tổng chi phí XDCB


* Tổng sản lượng hiện tại

Tổng sản lượng ước tính cả vòng đời

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/02/2023