Danh Sách Các Ngân Hàng Tmcp Trong Mẫu Dữ Liệu


Mỹ. Ngoài ra, bằng cách sử dụng các mô hình ba yếu tố cùng với quá trình tạo ra lợi nhuận của các ngân hàng Hàn Quốc, Hahm (2004) kết luận rằng tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu các ngân hàng Hàn Quốc rất nhạy cảm với những yếu tố này.

Như đã nói ở trên, những nghiên cứu này chủ yếu sử dụng phương pháp ước lượng tuyến tính, chẳng hạn như OLS và GLS, và không xem xét rằng sự nhạy cảm của ngân hàng với thị trường, lãi suất, và yếu tố tỷ giá là khác nhau theo thời gian. Do ảnh hưởng hiệu ứng ARCH phương pháp ước lượng tuyến tính (OLS) tạo ra kết quả sai lệch, không phù hợp và do đó, sẽ là đúng đắn khi giả định biến động liên tục trong giai đoạn nghiên cứu. Dựa trên giả định của một phương sai có điều kiện phụ thuộc thời gian, một vài nghiên cứu đã sử dụng các mô hình ARCH – GARCH để nắm bắt tính chất rủi ro thay đổi theo thời gian trong những dữ liệu này. Song (1994), người sử dụng mô hình ước lượng ARCH, cho thấy rằng mô hình ARCH là khung thích hợp nhất trong việc xác định lợi nhuận cổ phiếu ngân hàng. Bài nghiên cứu thực nghiệm của Mansur và Elyasiani (1995) đã nghiên cứu tác động của biến đổi cả về mức độ và sự biến động của lãi suất trên tiền lãi cổ phiếu ngân hàng áp dụng mô hình ước lượng ARCH, kết quả cho thấy rằng cả lãi suất và biến động lãi suất đều có khả năng ảnh hưởng ngân hàng lợi nhuận cổ phiếu. Flannery và cộng sự (1997), bằng cách sử dụng một mô hình GARCH hai yếu tố ban đầu được phát triển bởi Engle và cộng sự (1990), cho thấy rằng rủi ro thị trường và lãi suất đã trở thành một nhân tố quan trọng trong việc xác định danh mục đầu tư chứng khoán ngoài ngân hàng và ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đã được tìm thấy là ít mạnh mẽ trong các danh mục đầu tư cổ phiếu ngân hàng. Tương tự như vậy, bằng cách sử dụng các mô hình GARCH-M, những phát hiện của Elyasiani và Mansur (1998) đã chỉ ra rằng sự thay đổi trong lãi suất có tác động ngược chiều ngay thời điểm đầu tiên trong khi sự biến động liên quan có tác động ngược chiều đến sự phân phối tỷ suất sinh lợi cổ phiếu các ngân hàng. Tuy nhiên, những nghiên cứu này không đưa vào rủi ro tỷ giá. Do thiếu các nghiên cứu về tác động của


rủi ro tỷ giá tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng và củng cố thêm kết quả trước đó về rủi ro lãi suất, đó là mục đích của bài viết này cung cấp bằng chứng liên quan đến sự tương tác chung của thị trường, lãi suất và tỷ giá trên lợi nhuận cổ phiếu ngân hàng do sử dụng cả hai phương pháp OLS và mô hình GARCH.

Song (1994) đưa ra mô hình thống kê nghiên cứu rủi ro thay đổi theo thời gian của ngành ngân hàng, tác giả sử dụng mô hình hai nhân tố gồm nhân tố thị trường và lãi suất dự trên mô hình ICAPM của Merton. Mô hình ARCH được sử dụng để nghiên cứu sự thay đổi của cổ phiếu theo thời gian. Kết quả cho rằng rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất tác động mạnh mẽ lên tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu theo các giai đoạn khác nhau trong mẫu nghiên cứu từ năm 1977 – 1987.

Flannery và cộng sự (1997) đã sử dụng mô hình GARCH được nghiên cứu bởi Engle và cộng sự (1990) cho thấy rằng mặc dù rủi ro thị trường và lãi suất đều là những yếu tố tác động lên tỷ suất sinh lợi của một danh mục cổ phiếu phi ngân hàng, tuy nhiên rủi ro lãi suất lại ít ảnh hưởng đến các danh mục bao gồm cổ phiếu ngân hàng.

Nghiên cứu thực nghiệm của Ryan và cộng sự (2004) khai thác mô hình GARCH –M giải thích tác động của rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất và tỷ giá hối đoái lên tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngân hàng ở Úc trong thời gian 1996 -2001, kết quả bài nghiên cứu thể hiện rằng rủi ro lãi suất ngắn hạn, trung hạn, biến động lãi suất và rủi ro thị trường là những nhân tố giải thích trọng yếu đối với tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngành ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất dài hạn và tỷ giá thì không có ý nghĩa thống kê trong mô hình nghiên cứu trên dữ liệu tại Úc.

Mặc dù có rất nhiểu các nghiên cứu trên thế giới được thực hiện về đề tài tác động của lãi suất và tỷ giá đến tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng nhưng khá ít các nghiên cứu thực hiện tại các quốc gia đang phát triển. Nổi bật tại các quốc gia đang phát triển chính là mô hình nghiên cứu của Hooy và cộng sự (2004), bài nghiên cứu điều tra sự


nhạy cảm rủi ro lãi suất và tỷ giá của cổ phiếu ngân hàng tại Malaysia trong cuộc khủng hoảng tài chính gần đây bằng cách sử dụng GARCH-M. Trong giai đoạn trước và trong cuộc khủng hoảng, giá cổ phiếu ngân hàng đã trở nên ít nhạy cảm với những rủi ro, và đã nhạy cảm hơn khi nguy cơ rủi ro của các ngân hàng của Malaysia tăng sau khi các chính sách kiểm soát vốn và chính sách sáp nhập hợp nhất ngân hàng tại Malaysia để tránh khủng hoảng.

Saadet Kasman, Gulin Vardar và Gokce Tunc (2011) nghiên cứu tác động của lãi suất, tỷ giá hối đoái lên tỷ suất sinh lợi và biến động tỷ suất sinh lợi cua cổ phiếu ngành ngân hàng tại Thổ Nhĩ Kỳ bằng các sử dụng mô hình ước lượng OLS và GARCH, dữ liệu bao gồm giá đóng cửa cổ phiếu 13 Ngân hàng trong giai đoạn từ 27/07/1999 – 09/04/2009 được niêm yết trên sàn chứng khoán ISE, tỷ giá hối đoái bao gồm rổ tiền tệ chính là Euro và USD, lãi suất trái phiếu chính phủ 2 năm, chỉ số ISEindex 100 là chỉ số thị trường. Bài nghiên cứu đầu tiên sử dụng mô hình OLS để xác định tác động của biến động tỷ suất sinh lợi chỉ số trị trường, lãi suất và tỷ giá hối đoái lên tỷ suất sinh lợi của 13 cổ phiếu ngân hàng riêng lẻ và danh mục cổ phiếu ngân hàng Bankindex. Tuy nhiên, tác giả đã kiểm định hiệu ứng ARCH và có ý nghĩa ở tất cả các biến nghiên nghiên cứu, vì vậy tác giả đã sử dụng mô hình GARCH đã ước lượng vì mô hình là phù hợp. Ngoài ước lượng tác động lên tỷ suất sinh lợi, bài nghiên cứu còn sử dụng mô hình GARCH (1,1) để ước lượng của biến đông của lãi suất và tỷ giá hối đoái lên biến động tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngân hàng riêng lẻ và chỉ số danh mục cổ phiếu nganh ngân hàng. Bài nghiên cứu cho kết quả rằng những thay đổi lãi suất và tỷ giá hối đoái các tác động tiêu cực (tác động ngược chiều) và đáng kể lên tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngành ngân hàng, ngoài ra tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngành ngân hàng chịu tác động mạnh của rủi ro thị trường được đo lường bằng chỉ số ISEindex 100.

Tại Việt Nam cũng có một số tác giả nghiên cứu về đề tài ảnh hưởng của thị trường đến giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam như Nguyễn Quyết và Huỳnh


Thế Nguyễn vào năm 2013 đã nghiên cứu mối quan hệ giữa lãi suất, tỷ giá và giá cổ phiếu tại TPHCM, dữ liệu trong bài là chuỗi dữ liệu theo tháng thống kê từ tháng 10/2007 tới 10/2012 tại TPHCM. Các biến được tác giả sử dụng gồm lãi suất bình quân liên ngân hàng, tỷ giá USD, giá cả cổ phiếu thì được lấy logarit tự nhiên. Bài nghiên cứu cho thấy sự nhạy cảm giữa giá cổ phiếu với và lãi suất tại bậc trễ thứ nhất và tỷ giá tại bậc trễ thứ hai. Ngoài ra chính những bậc trễ 1, 2 của giá cả cổ phiếu cũng ảnh hưởng đến chính nó.

Một bài nghiên cứu nổi bật khác tại Việt Nam đó là Trương Đông Lộc (2014) nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi của giá cổ phiếu. Tác giả đã sử dụng chuỗi giá, lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS), lãi suất cho vay, tỷ giá USD/VND, giá vàng và chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tần suất hàng quý trong giai đoạn từ 31/12/2006 đến 31/12/2012. Bài nghiên cứu trình bày kết quả cho thấy rằng EPS, tỷ giá USD/VND có tương quan thuận với giá các cổ phiếu trên thị trường HOSE. Ngược lại, biến động của giá vàng và tỷ lệ lạm phát có mối tương quan nghịch với tỷ suất sinh lợi của các cổ phiếu.

Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy đã có rất nhiều những nghiên cứu khác nhau, và đánh giá tổng quát là tác động cùng chiều hay ngược chiều của tỷ giá, lãi suất, biến thị trường lên tỷ suất sinh lợi và biến động tỷ suất lợi của cổ phiếu ngành Ngân hàng. Bài nghiên cứu của Saadet Kasman, Gulin Vardar và Gokce Tunc (2011) đưa ra kết quả có ý nghĩa thống kê khá cao, phương pháp sử dụng ngoài OLS thông thường tác giả đá áp dụng mô hình GARCH (1,1) từ đó dự báo, mang đến tính chính xác và hợp lý cho bài nghiên cứu khi mà các kiểm định ARCH đều có ý nghĩa.

Việt Nam được xem là một thị trường mới nổi do sự tồn tại của sự bất ổn kinh tế vĩ mô như đặc trưng bởi sự biến động cao trong sự tăng trưởng và tỷ lệ lãi suất thực tế, thiếu thị trường tiền tệ, thị trường vốn, và có ít các công cụ phòng ngừa rủi ro. Vì vậy là đáng giá để kiểm tra xem một số những đặc điểm này ảnh hưởng đến sự sống còn của


hệ thống ngân hàng Việt Nam như thế nào. Sự lựa chọn Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu từ ngày 01/11/2011 – 30/11/2017 đánh giá hầu hết những biến động của nền kinh tế tác động thông qua tỷ giá hối đoái, những bất ổn lãi suất thị trường giai đoạn năm 2012, khi mà lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm lên đến gần 20%/năm, ngoài ra từ ngày 31/12/2015 Ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm của đồng Việt Nam với USD, tỷ giá tính chéo của đồng Việt Nam với một số ngoại tệ khác. Vì vậy để lấp đầy những khoảng trống trong nghiên cứu về tỷ suất sinh lợi và biến động tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu các ngân hàng đối với thị trường có nền kinh tế đang phát triển nói chung và thị trường Việt Nam nói riêng, tác giả thực hiện bài nghiên cứu này.

Dựa trên bài nghiên cứu Saadet Kasman, Gulin Vardar và Gokce Tunc (2011), tác giải sử dụng hai mô hình OLS và GARCH để ước lượng. Đầu tiên thu thập dữ liệu về tỷ giá USD/VND, lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm (bài nghiên cứu của Saadet Kasman, Gulin Vardar và Gokce Tunc (2011) sử dụng lãi suất Trái phiếu Chính phủ 2 năm) vì tác giả đánh giá đây là lãi suất có ảnh hưởng mạnh đến ngành Ngân hàng tại Việt Nam hơn là lãi suất trái phiếu Chính Phủ kỳ hạn 1 năm, chỉ số VN-INDEX đại diện cho chỉ số thị trường tại Việt Nam, tác giả chạy mô hình OLS để ước lượng, kiểm định ARCH tìm ra các mô hình có kiểm định ARCH có ý nghĩa, tiếp tục thực hiện chạy mô hình GARCH (1,1) để dự báo tỷ suất sinh lợi và biến động tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu các ngân hàng tại Việt Nam.


Chương 3. Phương pháp nghiên cứu


3.1. Dữ liệu


3.1.1. Dữ liệu về biến phụ thuộc


Bài nghiên cứu sử dụng mẫu dữ liệu tỷ suất sinh lợi cổ phiếu của tám ngân hàng đang niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn nghiên cứu từ ngày 01/11/2011 – 30/11/2017. Đây là tám ngân hàng có thời gian niêm yết khá sớm trên sàn HOSE và HNX, các mẫu dữ liệu này phục vụ cho việc nghiên cứu một cách toàn diện nhất về tỷ suất sinh lợi và biến động tỷ suất sinh lợi của các cổ phiếu ngân hàng.

Các ngân hàng được lựa chọn là những ngân hàng có tổng tài sản chiếm tỷ trọng khá lớn trong ngành Ngân hàng, nằm ở hai nhóm ngân hàng đại diện chủ yếu cho thị trường ngân hàng Việt Nam là:

- Nhóm ngân hàng TMCP có vốn chủ sở hữu nhà nước lớn, các ngân hàng này thường là các ngân hàng dẫn chiếu lãi suất và tỷ giá cho thị trường, Nhà nước thông qua các ngân hàng này một phần để quản lý và dẫn dắt thị trường bao gồm: Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (VCB), Ngân hàng Thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam (CTG).

- Nhóm Ngân hàng TMCP tư nhân gồm sáu ngân hàng còn lại trong mẫu nghiên cứu. Các ngân hàng này có tổng tài sản lớn và mạng lưới rộng khắp tại Việt Nam.


Bảng 3.1. Danh sách các ngân hàng TMCP trong mẫu dữ liệu



Số thứ tự

Ký hiệu

Ngân hàng

Ngày - Sàn niêm yết

1

ACB

Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu

21/11/2006 - HNX

2

CTG

Ngân hàng Thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam

16/07/2009 - HOSE

3

EIB

Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam

27/10/2009 - HOSE

4

MBB

Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội

1/11/2011 - HOSE

5

NVB

Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc Dân

13/09/2009 - HNX

6

SHB

Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội

20/04/2009 - HNX

7

STB

Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín

12/07/2006 - HOSE

8

VCB

Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam

30/06/2009 - HOSE

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Ảnh hưởng của biến động lãi suất và tỷ giá đến tỷ suất sinh lợi và biến động tỷ suất sinh lợi cổ phiếu tại ngân hàng thương mại Việt Nam - 3

Nguồn: website www.vndirect.com


Tỷ suất sinh lợi được tính toán bằng cách lấy giá đóng cửa hàng ngày của từng cổ phiếu ngân hàng. Công thức tính tỷ suất sinh lợi tại thời điểm t, ký hiệu là rt, được tính bằng công thức:

rt = 100*ln(pt/pt-1) Trong đó:

pt: Giá cổ phiếu i tại thời điểm t. pt-1: Giá cổ phiếu tại thời điểm t-1.

Tỷ suất sinh lợi được tính theo nguyên tắc lãi kép với số kỳ ghép lãi liên tục. Nguyên tắc này được áp dụng tương tự cho chỉ số thị trường, lãi suất và tỷ giá.

3.1.2. Dữ liệu về biến độc lập


3.1.2.1. Tỷ suất sinh lợi của chỉ số giá thị trường


Tác giả chọn chỉ số VN-Index đại diện cho chỉ số giá thị trường. VN-Index là chỉ số thể hiện xu hướng biến động giá của tất cả cổ phiếu niêm yết và giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ số VN-Index so sánh giá trị vốn hóa thị trường hiện tại với giá trị vốn hóa thị trường cơ sở vào ngày gốc 28/07/2000, ngày đầu tiên thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động. Giá trị vốn hóa thị trường cơ sở tính trong công thức chỉ số được điều chỉnh trong các trường hợp như niêm yết mới, hủy niêm yết và các trường hợp có thay đổi về vốn niêm yết. Chỉ số này được tính theo phương pháp trọng số giá trị thị trường, tức dựa vào mức độ chi phối của từng giá trị được sử dụng để tính chỉ số.

Ở Việt Nam, ngoài chỉ số VN-Index đại diện cho cổ phiếu niêm yết và giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh còn có hai chỉ số chính khác là HNX- Index (đại diện cho cổ phiếu niêm yết và giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán Hà

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/06/2022