nền Nho học không thể có sự phân chia cấp bậc với những quy định rõ ràng về chương trình học, thời gian theo học, bằng cấp có được sau mỗi kỳ thi. Tứ thư Ngũ kinh cũng không thể có những nội dung như: Số học, Sơ yếu về vũ trụ học, Đo diện tích và khối tích, Đo đạc ruộng đất và vẽ bình đồ, Giữ sổ sách kế toán … Tất cả đều được người Pháp mang đến từ nền giáo dục phương Tây. Trong hoàn cảnh nền Nho học đã tồn tại lâu dài với đầy đủ các thiết chế của nó và người dân Nam Kỳ, cũng như người Việt Nam nói chung, luôn dành sự kính trọng đối với tầng lớp xuất thân từ cửa Khổng sân Trình thì những trường học do kẻ thù lập nên chỉ có thể nhận được thái độ bất hợp tác từ dân chúng. Đây là nguyên nhân, cùng với tình hình chiến sự và mức độ vững vàng của nền cai trị, dẫn đến những thay đổi, điều chỉnh về giáo dục của nhà cầm quyền Pháp. Sự phản ứng của người dân đã có tác dụng: Quy chế 1874 và Quy chế 1879, những văn bản pháp quy đầu tiên về giáo dục ở Nam Kỳ, đã dành cho chữ Hán một vị trí nhất định trong chương trình học và dành cho các trường Nho học quyền tự do thành lập mà không cần phải xin phép, thậm chí theo chương trình học của Quy chế 1879, học sinh còn được học Tứ thư (từ cấp 1 đến cấp 3), Lịch sử và Địa lý Việt Nam (ở cấp 2 và cấp 3). Tuy vẫn song hành tồn tại cùng với các trường học do người Pháp thành lập nhưng nền Nho học Nam Kỳ, nửa sau thế kỷ XIX, đã không còn đủ sức để chống lại sự suy tàn: chế độ khoa cử bị bãi bỏ, phong trào kháng chiến do các sỹ phu lần lượt thất bại, nhà cầm quyền liên tục ban hành các Nghị định buộc dùng chữ Quốc ngữ trong các giấy tờ hành chính, và khuyến khích bằng tiền, miễn thuế cho việc sử dụng và dạy
7F
loại văn tự này8. Năm 1886, ưu thế về số lượng học sinh vẫn nghiêng về các trường Nho
học nhưng nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ đã được định hình và đang tiến dần đến sự ổn định, hoàn chỉnh.
8 Có thể kể ra ở đây một số Nghị định như:
- Nghị định ngày 22/2/1869 buộc dùng chữ quốc ngữ trong các giấy tờ chính thức.
- Nghị định 17/11/1874 khuyến khích các thầy đồ: nếu dạy thêm chữ quốc ngữ sẽ được thưởng 200 francs/năm.
- Nghị định 6/4/1878 quy định việc viết, ký và công bố mọi giấy tờ hành chính, văn kiện chính thức, nghị định, quyết định, sắc lệnh, phán quyết, chỉ thị … phải bằng chữ quốc ngữ. Trong ngạch phủ, huyện, tổng, không cho phép tuyển dụng, thăng trật người không biết chữ quốc ngữ. Các chức dịch trong làng sẽ được miễn một nửa hoặc toàn bộ thuế thân nếu biết chữ quốc ngữ …
- Nghị định 17/3/1879 về tổ chức nền học chính mới ở Nam Kỳ: Chữ quốc ngữ được dạy chính thức trong môn tập đọc và viết tường thuật.
Có thể bạn quan tâm!
- Yếu Tố Pháp - Việt Trong Lĩnh Vực Cải Cách Giáo Dục Ở Việt Nam Thời Kỳ 1862-1945
- Quá Trình Xác Lập Nền Giáo Dục Pháp Ở Nam Kỳ (1862-1886)
- Kết Quả Của Nền Giáo Dục Pháp Ở Nam Kỳ (1862-1886)
- Xác Lập Nền Giáo Dục Pháp - Việt Ở Việt Nam
- Quan Niệm Mới Về Giáo Dục Của Các Sỹ Phu Nho Học (Đầu Thế Kỷ Xx)
- Lĩnh Vực Cải Cách Giáo Dục - Một Biểu Hiện Của Sự Tương Tác Văn Hóa Pháp - Việt
Xem toàn bộ 146 trang tài liệu này.
- Thông tư ngày 28/10/1879 quy định thưởng tiền cho những làng nào viết được công văn bằng chữ quốc ngữ.
- Nghị định 14/6/1880 cho phép “mỗi làng, thị trấn của tổng không có trường Pháp sẽ thiết lập một trường dạy chữ quốc ngữ” và “những làng nhỏ có một trường dạy chữ quốc ngữ sẽ được miễn mọi thuế đóng góp cho trường hàng tổng”. [Xem 106, tr.42-43]
2.3. Quá trình chuyển đổi nền giáo dục Việt Nam: từ Nho học sang Tây học (1886-1945)
Đóng quân giữa một xứ sở mà Nho học còn đang ngự trị, dân chúng vẫn tiếp tục chiến đấu theo lời hiệu triệu Cần Vương, chủ trương cải cách giáo dục của nhà cầm quyền Pháp (cũng như các lĩnh vực khác), tất nhiên, không vì những điều khoản của Hiệp ước Paternôtre (1884) mà dễ dàng được thực hiện. Kinh nghiệm tổ chức giáo dục ở Nam Kỳ đã chỉ ra rằng: không thể vội vàng xóa bỏ chữ Hán và Nho học để thay bằng nền giáo dục mới đầy xa lạ, đến từ phương Tây. Quá trình xác lập nền Tây học ở Bắc Kỳ, và toàn Việt Nam, được khởi sự thời Tổng Khâm sứ Paul Bert, trải qua thời kỳ song hành tồn tại: Nho học - Tân học và được hoàn thiện khi Martial Merlin và Alexandre Varenne tiến hành một số điều chỉnh về hệ thống tổ chức ở cấp Tiểu học và cấp Trung học.
2.3.1. Khởi sự nền giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kỳ
Hiệp ước Patenôtre (1884) đã thừa nhận sự bảo hộ của người Pháp đối với Bắc Kỳ. Nhưng dường như các điều khoản này chỉ có ý nghĩa pháp lý, trên thực tế, dân chúng vẫn kiên quyết kháng chiến, còn quan lại, theo Giám mục Puginier, thì “vì quyền lợi cá nhân cũng như vì căm thù nước Pháp, những hành động chống đối của họ vẫn tiếp tục: đó là cả một âm mưu mà người ta trù tính hằng ngày trong từng chi tiết nhỏ, với một sự kiên trì không ai không biết, nhưng bề ngoài thì làm như không có gì” [dẫn theo 115, tr.434]. Trong hoàn cảnh này, nếu như lực lượng mang vũ khí cho rằng cần phải giữ nguyên trạng chế độ quân sự để duy trì sự ổn định thì tại diễn đàn Hạ Nghị viện, Paul Bert đã đưa ra những lý lẽ thuyết phục về nền cai trị dân sự. Paul Bert đến Việt Nam (1886), cùng với sự thay đổi về chế độ cai trị, nền Nho học ở Bắc Kỳ, sau hơn 800 năm tồn tại, bắt đầu chứng kiến nhiều điều mới lạ.
Lần tiếp xúc vội vàng năm 1873 chưa mang lại nhiều kinh nghiệm cho người Pháp trong ứng xử với dân chúng và do đó, khi đã danh chính ngôn thuận thực hiện việc chiếm đóng thì kẻ chinh phục vẫn vướng phải trở ngại mà họ đã gặp ở Nam Kỳ 25 năm trước: giao tiếp với dân bản xứ, sự tồn tại của thế lực Nho sỹ và chữ Hán - kẻ tử thù của những nhà truyền giáo và quân xâm lược. Cách thức giải quyết vấn đề của giới chức dân sự thường trầm tĩnh, sâu sắc hơn những người chỉ quen chinh chiến.
Thông ngôn vẫn là nỗi bận tâm của người Pháp, trong trường hợp Bắc Kỳ, điều đáng lo lắng không phải ở lòng trung thành của họ mà là trình độ dịch thuật. Sự kém cỏi
trong khả năng chuyển ngữ đã dẫn đến hệ quả rất nghiêm trọng là: tạo ra những hiểu lầm không đáng có giữa dân chúng và nhà cầm quyền, gây phương hại đến nền cai trị còn đang trong quá trình hoàn thiện. Do vậy, nhanh chóng thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa người Pháp và người An Nam trở thành mục đích của các trường học đã và sẽ được nhà cầm quyền tổ chức ở Bắc Kỳ. Phương sách thực hiện, theo Paul Bert, là: bằng cách truyền bá sự thông dụng tiếng Pháp cũng như sự hiểu biết những phong tục và khoa học của phương Tây; giáo viên phải cố gắng dạy học sinh những từ càng phổ biến càng tốt sao cho gần giống với cú pháp tiếng An Nam [43, tr.36]. Kèm theo đó, chữ Quốc ngữ cũng là một phương tiện hữu dụng, bởi “Việc dạy cho người bản xứ đọc và viết chữ quốc ngữ đối với chúng ta là một lợi ích lớn, công chức, thương gia của chúng ta có thể học nó rất dễ và những mối liên hệ giữa chúng ta với người bản xứ cũng sẽ trở nên rất thuận tiện” [dẫn theo 117, tr.196]. Nếu tiếng Pháp trở thành một ngôn ngữ thông dụng trong dân chúng thì thành quả đạt được sẽ là “Thoát ra khỏi sự độc quyền nguy hiểm của những viên thông ngôn” và sẽ thành hiện thực điều mà Paul Bert mong muốn “làm sao để một người Pháp du lịch đến đây hay đến để bàn bạc về kinh doanh có hy vọng tìm thấy trước mặt mình hay gần mình một người có thể hiểu được họ. Những người thông ngôn của chính quyền, bị kẹt giữa những thủ trưởng người Âu có học tiếng Annam, và những đồng bào của họ đã được người ta dạy cho tiếng Pháp, sẽ bị ngăn chặn trên con dốc không thể cưỡng được đưa họ đến chỗ làm hủy hoại sự thật” [dẫn theo 82, tr.439].
Dường như đã trở thành định kiến cố hữu, các giáo sỹ thừa sai, trong sự nghiệp truyền giáo ở Việt Nam, không thể yên lòng rao giảng Phúc Âm nếu Nho sỹ và chữ Hán vẫn còn tồn tại, và một quan điểm nhất quán của các vị chủ chăn là tiêu diệt một cách có hệ thống nền đạo lý Nho giáo vốn đã tạo thành nền tảng của xã hội Việt Nam, và thay vào đó bằng một sức mạnh tinh thần mới “mà người ta có sẵn” trong xứ này: Gia Tô giáo [115, tr.436]. Do vậy, để “lập nên ở Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ của Viễn Đông”, Giám mục Puginier cho rằng việc cần làm kế tiếp sau khi đã “Gia Tô giáo hóa cả xứ” là: phế bỏ chữ Nho và thay thế, lúc đầu bằng tiếng Việt Nam viết theo kiểu người Âu, gọi là Quốc ngữ, rồi sau đó bằng tiếng Pháp [115, tr.442-443]. Ý đồ phế bỏ chữ Hán đã chuốc lấy thất bại ở Nam Kỳ, nếu không biết rút ra bài học và mù quáng làm theo những chỉ dẫn của Đức Giám mục thì chắc chắn nhà cầm quyền cũng sẽ nhận được từ dân chúng thái độ bất hợp tác. Paul bert có cách làm riêng, tinh tế và hiệu quả hơn. Vẫn cho rằng nhất thiết phải loại bỏ những nhà Nho - linh hồn của cuộc kháng chiến đang diễn ra ở Bắc Kỳ - quan Tổng Khâm sứ đã làm
hai việc: đặt chức Kinh Lược Bắc Kỳ, qua đó, nắm trọn hệ thống quan lại, tiêu diệt lòng trung thành, cắt đứt quan hệ của những sỹ phu này với triều đình Huế, thành lập tổ chức “Hội đồng Nhân sỹ Bắc Kỳ” mà thành phần chủ yếu là giới bình dân để chuyển đạt đến Paul Bert nguyện vọng, nhu cầu của dân chúng, qua đó, tước bỏ uy tín và vai trò trung gian của hệ thống quan lại. Nguyên Bộ trưởng Giáo dục đã nhận thức được chức năng văn hóa của chữ Hán và chủ trương duy trì loại văn tự này: “Việc dạy chữ Pháp sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho việc học chữ quốc ngữ, cũng cần có một giáo trình chữ Nho, nếu trẻ con An Nam rời bỏ nhà trường của chúng ta mà không biết đọc và viết chữ Nho thông dụng … họ sẽ trở thành những người ngoại quốc trong xứ sở của họ và sau hết các trường của chúng ta sẽ không chiêu tập được ai vào học …” [117, tr.196].
Trong thời gian cầm quyền quá ngắn, Paul Bert chỉ kịp nêu lên danh xưng trường học Pháp - Việt và vài định hướng trong nội dung dạy học mà chưa thể phác thảo đầy đủ các vấn đề trọng yếu của một nền giáo dục là: chương trình học và hệ thống tổ chức. Dù vậy, giữa một xứ sở mà Nho học ngự trị đã xuất hiện những cơ sở giáo dục đầu tiên, khởi đầu là các trường Thông ngôn sau đó là các trường Tiểu học, dạy ngôn ngữ và kiến thức khoa học phương Tây. Chữ Pháp và Quốc ngữ được Paul Bert chọn làm phương tiện để xóa nhòa khoảng cách giữa nhà cầm quyền và dân chúng nhưng chữ Hán vẫn được lưu giữ lại trong khuôn viên các trường học do người Pháp thành lập, bất chấp những lời khuyến dụ đầy dụng ý phục vụ tôn giáo của các giáo sỹ. Còn ở bên ngoài, các thầy đồ vẫn mặc nhiên dạy Tứ Thư, Ngũ Kinh để học trò tham dự các kỳ thi Nho học do triều đình tổ chức đều đặn theo thông lệ 3 năm một lần và sau này, để đáp ứng những điều chỉnh trong thể thức thi cử, một số trường tư có dạy thêm chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Tất cả dựa trên tinh thần tự nguyện, “Paul Bert không mảy may nghĩ tới việc gây xung đột với nền văn minh và phong tục tập quán đã có bề dày hai mươi thế kỷ, nhưng vì chính sách muốn gây tác động đến văn hóa và phong tục ở đây, ông quyết định tiến hành một chính sách mưa dầm thấm lâu, dưới hình thức kiên trì tư vấn, khuyến nghị và gợi ý. Trong suy nghĩ của ông, đó không phải là chính sách đồng hóa hay cái gọi là Pháp hóa dân An Nam. Ông chỉ muốn một sự tiến hóa hợp lý về tâm thức, cải thiện chất lượng nền văn hóa và các kỹ năng bản địa thông qua một nền giáo dục hợp lý” [dẫn theo 43, tr.34]. Đây là những khác biệt đáng lưu ý nếu so sánh cách thức thiết lập nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ và ở Bắc Kỳ trong thời gian đầu.
Nền giáo dục thực dân sẽ không bao giờ cam nhận vị thế khiêm tốn của năm 1886, đó chỉ là bước khởi sự, khi có điều kiện thuận lợi, nó sẽ chuyển mình.
2.3.2. Song hành tồn tại: giáo dục Nho học và giáo dục Pháp - Việt
“Sau khi người lính đã hoàn thành sự nghiệp của mình thì đến lượt người giáo viên thực hiện sự nghiệp của họ” [dẫn theo 106, tr.35]. Đến đầu thế kỷ XX, khi phong trào Cần Vương không còn nữa, khi Paul Doumer đã thiết lập ở Đông Dương một tổ chức hành chính và một chương trình kinh tế hoạt động hiệu quả thì người Pháp có thể yên lòng tính đến sự nghiệp “chinh phục tinh thần” còn dang dở. Diễn ra trong sự chi phối của khuynh hướng liên hiệp từ Paris, cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam do Paul Beau khởi xướng vào năm 1906 và được hoàn thiện bởi hai vị Toàn quyền kế nhiệm là Klobukowsky và Albert Sarraut.
a. Nguyên nhân tiến hành cải cách giáo dục
Sớm đặt sự quan tâm vào giáo dục nhưng những trường Pháp - Việt mà người Pháp đã bỏ công xây dựng từ thời Paul Bert (1886) lại chẳng thu được bao nhiêu kết quả trong khi nền Nho học vẫn tồn tại vững vàng. Hơn thế nữa, những kẻ thức thời được đào tạo từ trường Pháp - Việt, tham gia vào bộ máy công quyền nhưng lại ở vị trí thấp hơn rất nhiều so với trí thức Nho học trong hệ thống thang bậc xã hội, do vậy, ở lớp người Tân học đã xuất hiện nỗi mặc cảm “Chúng tôi vẫn là những người thấp kém về mặt xã hội đối với những nho sỹ hạn thấp nhất” [dẫn theo 9, tr.63]. Ở xứ thuộc địa Nam Kỳ, nền giáo dục Pháp đã được tổ chức hoàn chỉnh với hệ thống 3 cấp học và một chương trình học dành ưu thế tuyệt đối cho chữ Pháp nhưng vẫn lưu giữ một vài nội dung Nho học. Còn Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tình hình giáo dục vẫn không có nhiều thay đổi, Nho học và chữ Hán cùng với những định chế của nó được duy trì gần như nguyên vẹn. Hiện trạng không thống nhất về tổ chức và chương trình học vừa nêu gây khó khăn cho việc quản lý giáo dục của nhà cầm quyền và người Pháp cảm thấy rất khó chịu trước sự tồn tại của những trường học do thầy đồ giảng dạy theo chương trình Nho học mà họ không thể kiểm soát. Do vậy, vấn đề đặt ra là tổ chức lại hệ thống giáo dục để tạo thuận lợi cho công tác quản lý và áp dụng một chương trình học thống nhất.
Kinh nghiệm tổ chức giáo dục ở Nam Kỳ cho thấy rằng: không thể tiến hành một sự thay đổi vội vàng, phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của chữ Nho trong chương trình học là điều cấm kỵ, vì những lẽ này, nền giáo dục mới cần phải lưu ý đến đối tượng tiếp nhận: những người sống trong môi trường văn hóa phương Đông đang đối mặt với sự du nhập của văn hóa phương Tây. Paris chắc chắn sẽ không phản đối đường lối dung hòa vì “Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Clémentel ngả sang chính sách hợp tác, khẳng định rằng bằng việc thể hiện sự
hào phóng và nhân từ, nước Pháp sẽ bảo vệ được những lợi ích của họ ở thuộc địa” [dẫn theo 43, tr.58].
Phát xuất từ yêu cầu nêu trên và trong hoàn cảnh chính sách cai trị đã bắt đầu chuyển sang khuynh hướng liên hiệp, mục đích của cuộc cải cách giáo dục được xác định: “chuyển giáo dục truyền thống thành giáo dục kiểu mới, thúc đẩy nền giáo dục bản địa theo các chương trình và phương pháp giáo dục có tên Pháp - Việt, chủ trương tập trung hóa và thống nhất nền giáo dục với những chương trình học giống nhau trong từng xứ” [dẫn theo 43, tr.61].
b. Cải cách giáo dục Nho học
9
Theo nhiệm vụ của Hội đồng Hoàn thiện Giáo dục Bản xứ Đông Dương (Conseil de perfectionnement l’Enseignement indigène en Indochine) được thành lập theo Nghị định do Toàn quyền Đông Dương Paul Beau ký ngày 8/3/1906 và chủ trương của Hội đồng Hoàn thiện Giáo dục Bản xứ ở Bắc Kỳ (Comité local de perfectionnement de l’Enseignement indigène) được thành lập theo Nghị định cũng do Toàn quyền Đông Dương Paul Beau ký ngày 16/5/1906 thì con đường cải cách giáo dục Nho học của nhà cầm quyền Pháp sẽ là: đưa các trường Nho học vào hệ thống trường công lập dưới sự kiểm soát của Nha Học chính8F và đề ra cải cách cho những trường này nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là chuyển các trường Nho học sang thành trường Pháp - Việt [43, tr.66].
Ngày 16/11/1906, Thống sứ Bắc Kỳ ban hành Nghị định số 1551bis về việc tổ chức
10
lại hệ thống giáo dục bản xứ tại Bắc Kỳ với 3 bậc: Ấu học, Tiểu học, Trung học9F , đồng thời đề xuất thay đổi đối với các kỳ thi Hán học [43, tr.71].
9 Tổng Nha Học chính Đông Dương (Direction Géneéral de l’Instruction Publique de l’Indo-Chine) được thành lập theo Nghị định do Toàn quyền Đông Dương Paul Beau ký ngày 20/6/1905, có trách nhiệm:
- Lập chương trình, thống nhất phương pháp giảng dạy và phối hợp với Giám đốc các Sở Học chính đề ra một kế hoạch giáo dục phù hợp nhất;
- Trình lên Toàn quyền những đề xuất nhằm cải thiện hoạt động giáo dục;
- Đề xuất kế hoạch xây mới các trường học hoặc tổ chức các trường học. [Xem 43, tr.65]
10 Các tài liệu đề cập đến vấn đề cải cách giáo dục Nho học, chủ yếu gồm: 1.Phan Trọng Báu (2006), Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb Giáo dục
2.Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
3.Trần Thị Thanh Thanh (2012), Hỏi và đáp về nền giáo dục Nam Bộ thời kỳ 1867-1945, Báo cáo tổng kết Đề tài Khoa học và Công nghệ cấp cơ sở, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
Các tài liệu đều thống nhất về tổ chức giáo dục Nho học gồm 3 bậc: Ấu học, Tiểu học, Trung học nhưng lại không trình bày rõ ràng về số năm ở mỗi bậc học và nội dung chương trình học. Phan Trọng Báu có nêu số năm của bậc Ấu học là 3 năm, của bậc Tiểu học là 2 năm nhưng không nhắc đến thời gian của bậc Trung học [xem 9, tr.69-71]. Trần Thị Phương Hoa chỉ nêu sơ lược về chương trình học mới của giáo dục Nho học nhưng không dẫn nguồn [xem 43, tr.71-72], Phan Trọng Báu trình bày cụ thể hơn về nội dung học và thời lượng dành cho từng loại văn tự ở từng bậc học nhưng cũng không dẫn nguồn [xem 9, tr.68-71]. Trong điều kiện này, chúng tôi sẽ không nêu số năm của từng bậc học và trình bày chương trình học mới của giáo dục Nho học theo công trình nghiên cứu của Trần Thị Thanh Thanh vì tuy không cụ thể như nội dung trình bày của Phan Trọng Báu nhưng có chú dẫn rõ ràng về nguồn tài liệu tham khảo.
rưỡi).
Chương trình các bậc học như sau
1. Bậc Ấu học
- Phần chữ Nho gồm các môn: chữ Nho, địa lý, lịch sử.
- Phần chữ Việt gồm: chữ quốc ngữ, cách trí, vệ sinh, tổ chức hành chính … Cuối bậc có kỳ thi Tuyển. Người đậu gọi là Tuyển sinh.
Thi có 3 bài viết:
- Chép 1 bài bằng chữ Nho dễ, dịch ra Quốc ngữ (2 giờ);
- 1 bài toán sơ đẳng (1 giờ rưỡi);
- 1 bài luận nhỏ bằng quốc ngữ về một vấn đề địa lý; vệ sinh hay khoa học (1 giờ
2. Bậc Tiểu học
- Phần chữ Nho gồm: đạo đức, văn học cổ điển (Tứ thư), lịch sử Trung Quốc và lịch
sử Việt Nam. Bãi bỏ bài tập làm thơ và câu đối.
- Phần chữ Việt gồm: lịch sử và văn hóa thế giới đại lược, địa lý đại lược (có một phần đặc biệt dành cho nước Pháp và xứ Đông-dương); khoa học; ngôn ngữ Việt Nam thông tục.
Cuối bậc có một kỳ thi hàng tỉnh gọi là khảo khóa. Người đậu kỳ thi này được gọi là Khóa sinh.
Các môn thi gồm có:
- 1 bài luận chữ Nho về một đề tài luân lý hay lịch sử;
- 1 bài luận tiếng Việt;
- 1 bài dịch chữ Nho sang chữ Việt hay dịch ngược Việt - Nho. Ngoài ra còn có môn Pháp văn không bắt buộc.
3. Bậc Trung học
- Chương trình gồm một phần chữ Nho, một phần chữ Việt và một phần chữ Pháp.
- Phần chữ Nho gồm: đạo đức và văn học cổ điển (ngũ kinh), lịch sử và hành chính Việt Nam (tổ chức lục bộ). Bài tập gồm các báo cáo, luận … Hủy bỏ bài tập làm thơ.
- Phần tiếng Pháp giao cho các giáo viên trường Pháp - Việt của tỉnh lỵ đảm nhiệm có sự kiểm soát của Đốc học. Các giáo viên này còn đảm nhiệm phần tiếng Việt gồm các môn: địa lý, lịch sử, toán, khoa học. Bài tập gồm: viết, luận, toán, tập dịch. [Xem 106, tr.65- 66]
Phù hợp với những nội dung mới trong chương trình Nho học và những quy định về các kỳ thi Tuyển, Khóa, Hạch, nhà cầm quyền Pháp cũng ban hành những quy định mới dành cho hệ thống khoa cử truyền thống. Theo Nghị định ngày 16/11/1906 và nội dung sửa đổi trong Nghị định ngày 2/11/1911, chỉ những người đã đỗ thi Hạch (Thí sinh) mới được dự thi Hương và kỳ thi gồm 4 bài: bài thi bằng chữ Hán (văn sách); bài thi bằng chữ Quốc ngữ trình bày 3 vấn đề: văn học, địa lý, khoa học; bài thi bằng tiếng Pháp có 2 vấn đề: dịch từ chữ Pháp sang chữ Hán và từ chữ Quốc ngữ sang chữ Pháp; một bài luận tóm tắt gồm 3 vấn đề: bài luận chữ Hán, bài luận chữ Quốc ngữ và một bài dịch từ chữ Hán sang chữ Pháp. Theo số điểm mà Thí sinh đạt được để định cử nhân và tú tài [43, tr.83-84; xem 9, tr.71]. Tuy chưa đề cập đến những cải cách dành cho thi Hội và thi Đình nhưng theo E. Maitre, thành viên của Hội đồng Cải cách Giáo dục, “kỳ thi chọn tiến sỹ sẽ sửa đổi lại cho thích hợp với những cải cách đề ra trong những kỳ thi Hương, cho đến lúc sự phát triển của nền giáo dục đại học cho phép chuyển hóa thành một kỳ sát hạch có mục đích đánh giá những thí sinh qua những công trình thực sự cơ bản và mang dấu ấn cá nhân” [dẫn theo 106, tr.66-67].
Những Nghị định nêu trên đã làm thay đổi nền giáo dục Nho học ở cả hệ thống tổ chức lẫn chương trình học. Đã qua rồi thời kỳ các trường Nho học được thành lập tự do mà những Nho sỹ từng thi cử, đỗ đạt đều có thể trở thành thầy đồ theo chí hướng phổ biến “tiến vi quan, thoái vi sư”. Từ năm 1906, các trường Nho học đã thuộc hệ thống công lập do các Sở Học chính quản lý. Người Pháp đạt được mục đích kiểm soát toàn bộ hệ thống giáo dục. Nếu như sự phân định nội dung học tập trong nền giáo dục truyền thống chỉ mang tính tương đối, phụ thuộc vào quyết định của người dạy và khả năng tiếp nhận của học trò thì trong lần cải cách này, nhà cầm quyền đã định ra một chương trình học rõ ràng gắn với số năm của từng bậc học bao gồm số môn học cho từng năm, nội dung và thời lượng dành cho các môn học. Chương trình học mới đã dành cho chữ Hán vị trí trang trọng, lưu giữ gần như tất cả nội dung của chương trình Nho học (Tứ thư, Ngũ kinh, lịch sử Trung Quốc, có thêm lịch sử Việt Nam), chỉ bỏ đi các bài tập về làm thơ, câu đối. Chữ Quốc ngữ được dùng để dạy những nội dung thuộc về tri thức khoa học của nền văn minh phương Tây ở cả 3 bậc học, gần với nội dung học tập trong các trường Pháp - Việt. Học sinh bắt đầu tiếp cận chữ Pháp ở bậc Tiểu học theo tinh thần tự nguyện, chính thức học loại văn tự này ở bậc Trung học mà nội dung chủ yếu thiên về dịch thuật: từ chữ Pháp sang chữ Việt. Định ra chương trình học này, người Pháp đã tiến những bước cẩn trọng: vừa không tạo ra ở những người