xảy ra... Vạn vật như đang đắm chìm trong thuở hồng hoang. Thiên nhiên, con người như đang trên đường dẫn tới sự huỷ diệt.
Trong tiểu thuyếtNgười đi vắng: không gian có sự xuất hiện của vết chân thần thánh, khung cảnh thay đổi khi Thái Tuế hiện hình, dự cảm điều bất hạnh sẽ xảy đến với nhân vật. Ở đây, nhà văn đã miêu tả một hiện thực chứa đầy điều kỳ ảo, một cuộc sống thường nhật chất chứa sự hoang đường. Từ xưa tới nay, trong quan niệm của nhân dân ta thì Thần Thánh là một hiện tượng thuộc về đời sống tâm lí, được mọi người sùng kính và tôn thờ. Thái Tuế được coi là ông vua cai quản một vùng đất. Thái Tuế khi xây nhà động chạm tới long mạch của đất gợi một linh cảm về hậu quả khốc liệt giáng xuống con người. Thái Tuế chính là biểu tượng cho sức mạnh thiêng liêng của đất. Thiên nhiên có qui luật riêng của nó, con người không phải lúc nào cũng có thể biến đổi thiên nhiên hay có sức mạnh phi thường bắt thiên nhiên phải qui phục. Vì thế không gian vô thức trong Người đi vắng đã giúp nhà văn nêu một dự cảm không lành về môi trường sống nếu con người xâm phạm thiên nhiên một cách thô bạo, trắng trợn.
Không gian của Thoạt kỳ thuỷ luôn gắn liền với bầu không khí u ám, sắc màu ảm đạm gợi ra viễn cảnh của cuộc sống âm u, lạnh lẽo hoang vu thời tiền sử. Con người như đang sống trong cơn quặn mình hấp hối, mê sảng và sắp đi đến chỗ diệt vong. Trong Ngồi, không gian chập chờn trong còi vô thức của nhân vật Khẩn, Kim... cho ta cảm giác về một sự khác lạ, ma quái đang diễn ra giữa thế giới của đời sống thực.
Trí nhớ suy tàn có một không gian siêu thực, không gian được cảm nhận qua tâm tưởng, qua những trải nhiệm cá nhân; đó là một không gian được thể hiện qua ảo giác của một cô gái. Ở đó có một mê cung với nhiều ngã rẽ, nhiều con đường cứ mờ ảo, chập chờn. Từ đó, ta thấy mỗi người tồn tại như một cá nhân nhỏ bé trôi dạt giữa dòng đời mênh mông, vô tận.
“Ngày bé đã từng lạc ở khu phố cổ, chưa đến mức đi hết ba mươi sáu phố phường nhưng cũng loanh quanh hàng tiếng đồng hồ trong Hàng Mã, Ngò Gạch, Hàng Đồng. Khu phố cổ là một sơ đồ chập chờn uẩn khúc giam giữ bao nhiêu người già với những ký ức phiền não, giam giữ cho đến chết mới thả họ ra tựa chiếc lá bàng khô đột ngột hiện ra từ miệng cống. Những ký ức phiền não quẩn quanh trong những bức tường tróc lở rêu phong” [5;11].
Qua không gian vô thức trong Trí nhớ suy tàn, Nguyễn Bình Phương đã đề cập đến phương diện đa chiều của cuộc sống thường nhật. Có lúc do áp lực nào đó, người ta rơi vào sự bế tắc, vô hướng, vô nghĩa và cảm giác chập chờn, ngột ngạt, nhất là trong cuộc sống đô thị. Trong không gian huyền ảo của những giấc mơ, những phức tạp trong suy tưởng, nhân vật "em" lạc trong bầu không khí đan xen hoài niệm quá khứ - hiện tại nhập nhoà gây ảo giác lẫn lộn giữa hư - thực. Từ đó, nhà văn nói được nhiều hơn, thấm thía hơn nỗi cô đơn của nhân vật.
Tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương hướng về một không gian bao la, lành lạnh của dòng sông. Ở đó nhân vật Khẩn tự thấm thía sự tồn tại mong manh của mình: “Sông Hồng lạnh lùng mê mải với hành trình của mình như nó đã từng chảy hàng ngàn năm trước để cuốn trôi mọi thứ về không gian khác, thời gian khác. Khẩn nổi da gà khi nghĩ mình chỉ là một chấm nhỏ, vô cùng nhỏ trên hành trình dài dằng dặc của con sông này” [7;136].
Bên cạnh đó còn có không gian của truyền thuyết: truyền thuyết tinh rồng “Liên kể quanh khu vực hồ này từ lâu đã truyền nhau về một huyệt đất chứa tinh rồng, ai táng được mả người nhà vào đấy sẽ phát... Cứ rằm nguyên tiêu là có một chấm sáng vàng hiện ra trong làn nước ấy. Chấm sáng di chuyển liên tục cho tới khi có ai dùng nơm úp trúng thì nó sẽ dừng lại. Chỗ đó chính là nơi huyệt táng” [7;212].
Thụy Khuê trong bài “Thế tĩnh tọa trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương” nhận xét: “tiểu thuyết “Ngồi” dựa trên sự bất định trong một
không gian ảo” [32]. Đúng vậy, không gian mà tác giả tạo dựng trong tác phẩm đa phần là không gian của suy tưởng, không gian của những giấc mộng, không gian của truyền thuyết... tất cả chập chờn mờ ảo trong còi vô thức của các nhân vật. Tính không cản trở của không gian kỳ ảo đã tạo điều kiện cho thế giới nghệ thuật của nhà văn biểu hiện được tận cùng mọi ý nghĩa của cuộc sống dương thế. Không gian vừa như một thực thể hữu hình, vừa như vô hình tồn tại trong tâm tưởng con người. Con người có thể sống một lúc trong nhiều không gian khác nhau (âm – dương, thực - ảo), nhiều khi không xác định được rò nét ranh giới của nó. Không gian ảo đưa con người vào sâu thế giới vô thực để từ đó tăng cường khả năng cảm nhận hiện thực cuộc sống và chính bản thân mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương - 2
- Không Gian Kỳ Ảo Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Bình Phương
- Không Gian Chập Chờn Trong Còi Vô Thức
- Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương - 6
- Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương - 7
- Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương - 8
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
Không gian nghệ thuật có thể xem như “một quan niệm về thế giới và con người, một phương thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn” [44;67].
Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương mở ra những miền không gian mới. Nhà văn đã chủ ý giảm bớt sắc màu không gian hiện thực, gia tăng các yếu tố kỳ ảo để tạo dựng không gian âm giới, không gian rừng núi huyền bí, không gian tâm tưởng, mở ra nhiều chiều, nhiều kích cỡ, trạng thái khác với không gian thực. Từ những bình diện không gian mới, nhà văn đã tìm đến những con đường khác nhau để lý giải cuộc sống, khám phá tình trạng hiện sinh của con người.
1.2. Thời gian biến ảo
Thời gian nghệ thuật là phạm trù đặc trưng của văn học, là hình thức cảm nhận thế giới của con người với một quan niệm nhất định về thế giới. Thời gian nghệ thuật được thi pháp học hiện đại định nghĩa: “Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai. Thời gian nghệ thuật do được sáng tạo
nên mang tính chủ quan, gắn với thời gian tâm lí. Nó có thể kéo dài hay rút ngắn thời gian thực tế. Nó có thể đảo ngược hay vượt tới tương lai” [44;77].
Cũng giống như không gian nghệ thuật, sự hiện diện và chi phối của yếu tố kỳ ảo đã đem đến cho thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương những đặc trưng riêng – thời gian biến ảo.
Biến ảo là “biến hóa không biết đâu mà lường” [38;78]. Thời gian biến ảo là thời gian vận động biến hóa khác thường, đó là thời gian tuyến tính đan xen thời gian phi tuyến tính (Thoạt kỳ thuỷ, Người đi vắng), thời gian nhập nhoà trong còi vô thức (Trí nhớ suy tàn, Ngồi)... Đó không phải là thời gian khép kín mà là thời gian có sự vận động linh hoạt, đan xen nhiều yếu tố.
1.2. 1. Thời gian hư ảo, phi tuyến tính, không xác thực
Một trong những đặc điểm của việc đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết là sự xuất hiện của thời gian phi tuyến tính bên cạnh dòng thời gian tuyến tính. Thời gian trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương là sự pha trộn, đan xen của cái kỳ ảo trong quá khứ và hiện tại. Thời gian được mơ hồ hóa tạo nên tính chất hư ảo, góp phần tạo không gian kỳ ảo trong tác phẩm. Những đơn vị thời gian và những mốc thời gian thường mang tính chất mơ hồ, không xác định.
Thoạt kỳ thủy có dòng thời gian về cuộc đời của con cú, biểu tượng sức mạnh tăm tối của còi âm. Dòng đời của nó diễn ra trong 45 phút với từng thời điểm xuất hiện: “Lông hoa mơ, sải cánh dài 40 phân. Mỏ khoằm, sắc... 11giờ 45 phút con cú giật mình rơi từ vòm lá xuống ”, “11 giờ mười bảy, dòng sông trườn dưới bụng con cú mèo. Những chiếc móng ngâm nước có cảm giác. Con cú thở nhè nhẹ. Đôi mắt mở to, tròn, dửng dưng, vô cảm. Trong đôi mắt ấy thấp thoáng bóng cành sung già, lá xanh thẫm”, 11 giờ 20, 12 giờ kém 19 phút... 12 giờ con cú hít một hơi dài bay đi mất. Con cú được miêu tả bằng năm đoạn văn, từ khi nó rơi xuống nước đến khi bay lên được. Tại sao lại là cú mà không phải là một loài chim khác? Bởi “cú vốn được xem là hoá thân
của đêm, mưa, bão tố, nó cũng có mối dây liên hệ mật thiết với các yếu tố thuộc về vô thức: nguyệt (trăng), thổ (đất)” [34;20]. Con cú hiện diện với từng thời điểm cụ thể chính xác đến từng phút, từng giờ song lại không biết xảy ra vào ngày, tháng năm nào. Thời gian tưởng như cụ thể mà lại không xác định. Thời gian hư ảo, không xác thực ấy đã đưa người đọc vào trạng thái bất định. Người đọc không thể xác định được thời gian diễn ra câu chuyện, đó là câu chuyện từ thuở “thoạt kỳ thuỷ” nhưng không biết là vào giai đoạn nào, vào năm nào.
Quãng thời gian của con cú xuất hiện song song với cuộc đời của nhân vật Tính cùng với lịch sử sinh ra và mất đi của cả một ngôi làng.
Trong tiểu thuyết Người đi vắng có sự chồng chéo của các lớp thời gian quá khứ và hiện tại. Thời gian hiện tại chủ yếu là câu chuyện về gia đình Thắng. Thắng là một công chức nhà nước có gia đình ở quê với đông đủ anh chị em. Thắng lấy vợ là Hoàn và sống ở thành phố cùng gia đình nhà vợ. Hoàn làm diễn viên của một đoàn chèo, tuy có chồng nhưng cô vẫn có quan hệ tình cảm riêng tư với Cương – một đồng nghiệp. Sau một buổi giỗ mẹ Thắng, hàng loạt các biến cố xảy ra: chuyện xây nhà dưới quê bị động mạch, Hoàn bị tai nạn, Sơn – em trai Thắng chết, rồi Thắng có quan hệ với Thư – người bạn gái thân thiết, người làm cùng cơ quan với Hoàn.
Thời gian quá khứ có hai mảng đan xen, đó là chuyện về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên của Đội Cấn và chuyện về hành trình của Diên Bình công chúa “Nàng rùng mình khi nghĩ rằng sẽ ở đây vĩnh viễn. Nàng bị bứt ra khỏi vườn ném vào giữa đại ngàn hoang dại... Nàng thở dài, nỗi ấm ức dâng lên, dâng lên nữa và những ngọn núi nhòe đi rủ xuống méo xệch rùng rinh. Nàng khóc. Đó là một ngày mờ nhạt nhất của năm 1127”.
Sự đồng hiện giữa thời gian hiện tại với thời gian huyền thoại, thời gian lịch sử tạo ra không khí hư ảo cho tác phẩm. Khi thời gian thực tế ào ạt chảy, thời gian lịch sử từ từ trôi qua trong từng giây từng phút.
Trong tiểu thuyết Ngồi kể về nhiều sự kiện, hiện tượng hư ảo. Mỗi sự kiện ấy được huyền thoại hóa cho một giai đoạn, thời đại lịch sử cụ thể. Nhắc tới nó người ta nhớ ngay về một thời điểm của quá khứ hay lịch sử mang màu sắc tôn giáo. Mở đầu câu chuyện là “hình ảnh cột trụ đồng là biểu tượng của thời Giao Chỉ, dáng hình của người đàn bà lưng ong tay vượn, núm vú chảy dài gợi cho ta nhớ về thời bán sơ khai. Tiếp theo, tiểu thuyết nhiều lần nhắc đến ngôi chùa với người ni cô có dáng bồ tát, đến cuộc đời bất hạnh của người đàn bà coi đền mang dáng dấp của sự tích Phật giáo. Nhà văn kể đến những dấu ấn của truyền thuyết thời xưa, về vị pháp sư già bày và phá trận huyền đồ bát quái trong giấc mơ của Khẩn, hình ảnh chữ "Niểu" với mười tám con rắn bay lượn và truyền thuyết tinh rồng cùng cơn cuồng phong trong đám ma bà ngoại Nhung tạo cho người đọc có cảm giác đang sống lại thời binh thư trận mạc kéo dài hàng mấy thế kỉ, trở về với truyền thống Hán học, nền thư họa và sau cùng là dấu tích của thuật phong thuỷ” [32]. Những sự kiện, hiện tượng diễn ra lần lượt cũng gợi ra sự trôi chảy của dòng thời gian từ từ từng chặng, từ quá khứ đến hiện tại.
Bằng việc sử dụng thời gian huyền thoại hoá, Nguyễn Bình Phương đã gợi lên một lịch sử dân tộc với bề dày quá khứ và văn hóa.
Hay trong Những đứa trẻ chết già, thời gian quá khứ được cụ thể hóa song lại mang đầy yếu tố mờ ảo, huyền kỳ. Tới 16 lần thời gian được nhắc đến với giờ giấc cụ thể đến từng phút, từng mùa nhưng không rò vào năm nào, thời đại nào và luôn mang tính chất điềm báo, định mệnh:
“Ngày 21, sông Linh Nham cạn sạch. Ao nhà bà Liêm tự dưng đầy ắp nước, trong ao có con cá trê đỏ to bằng bụng chân, mắt mù, đuôi dài như chiếc khăn phu la” [3;86]
“Giờ Thìn, phía sau quả đồi nhà lão Liêm có tiếng kêu dài và lạ. Tiếng kêu ấy không biết của người hay thú” [3;267]
“Giờ Ngọ cùng ngày, trời trở lạnh dữ dội, cá ở sông Linh Nham chết nhiều vô kể. Có hai cây cổ thụ trong làng tự dưng đổ ập xuống cùng một lúc và tan ra thành bụi” [3;267]
“Giờ Thân, vết chân thú in ở mặt đá trong ngôi miếu nhà cô Nguyệt tự dưng ứa máu đầm đìa” [3;267] ...
Thời gian được cụ thể, chính xác đến từng giờ từng phút song lại gây cảm giác mơ hồ không xác định cho độc giả. Thời gian dường như cũng hoà chung trong dòng chảy biến hoá khôn lường của không gian để tạo ra ấn tượng về một thời xa xưa, một miền xa vắng chứa đầy những sự kiện, hiện tượng kỳ ảo.
1.2.2. Thời gian trong còi vô thức
Trong Những đứa trẻ chết già có nhân vật được tác giả gọi bằng cái tên chung là “ông”. Nhân vật “ông” thường ngược dòng về những câu chuyện của quá khứ. Các lớp thời gian quá khứ cứ chồng chất đan xen lẫn nhau làm người đọc như lạc vào mê cung của quá khứ, của tâm tưởng, kí ức. Thời điểm thường được nhắc tới là hoàng hôn, thời điểm giáp ranh sáng tối, lúc đó mọi sự vật, hiện tượng được soi rọi bởi thứ ánh sánh le lói sắp tắt của ngày tàn, bởi không khí trầm buồn, hoàng hôn miền trung du rề rà, mệt mỏi.
Trong tiểu thuyết Người đi vắng quãng thời gian mà Hoàn bị hôn mê sau vụ tai nạn trở thành “thời gian trắng”. Từ lúc ngã xe, bất tỉnh, Hoàn đã hoàn toàn lạc vào thế giới của vô thức. Trong đó, cô tìm lại với quá khứ tuổi thơ, kỉ niệm ngày cưới và những giây phút thời gian dừng lại ở kiếp trước, ở kiếp sau của chính mình. Nơi đó, Hoàn đã sống bằng tâm tưởng, chiêm nghiệm... Trong ký ức của Hoàn không gian hầu như đã bị tẩy trắng, ý thức về thời gian không còn tồn tại: “không thời gian, không mùa” hay “bóng tối vít thời gian lại, đóng đinh nó lên những cành sung và tất cả đều ẩm ướt, ảm đạm”. Nếu còn chút ý thức mơ hồ về thời gian, nhận thức cũng bị xáo trộn “Mỗi lần Hoàn chớp mắt cô gái lại thay đổi vị trí, từ lúc im lặng chuyển sang
đung đưa rồi những ngón chân co giật tuyệt vọng. Hoàn chớp mắt liên tục, cô gái dứng trên chiếc ghế đẩu với sợi dây tròng qua cổ, mắt mở to điên dại mịt mù trong màu đen... Cô gái úp mặt xuống giường răng cắn chặt gối... Hoàn ngừng chớp mắt vì không muốn đi sâu vào cuộc đời người khác” [6;78].
Thời gian trong còi vô thức đưa Hoàn trở về với những mảng ký ức xáo trộn, rời rạc. Có khi Hoàn nhập vào cuộc đời của một cô gái treo cổ tự tử vì bị người tình phụ bạc. Lúc này thời gian dường như được kéo căng như một sợi dây để người đi trên đó thấm thía đến tận cùng cảm giác kinh hãi về số phận mỏng manh của chính mình. Trong còi vô thức, khi chạy trốn vào tiền kiếp, nhân vật Hoàn còn gặp nhiều nhân vật khác là những bóng ma chập chờn (cô gái tự tử vì người yêu phụ bạc, người đàn bà xa lạ, con mèo được tạc vào nước, hàng trăm khuôn mặt biến ảo...).
Bên cạnh đó còn có thời gian bị tẩy trắng hoàn toàn. Khi nhân vật Yến
- em chồng của Hoàn - lên thành phố để chăm sóc Hoàn, Yến dần dần đánh mất khái niệm về thời gian, cô chỉ cặm cụi với những trang sách và nghiện mùi cồn ở bệnh viện. Với cô, thời gian không còn có một ý nghĩa nào. Cô luôn đắm chìm trong những câu chuyện về bi kịch tình yêu của tiểu thuyết tình ái. Cô sống giữa cuộc đời thường nhật mà như tồn tại giữa một thế giới xa lạ, ảo ảnh. Yến trở nên vô cảm, thờ ơ với những người thân thiết trong gia đình mình. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh “chiếc xe cứu thương chở xác của Sơn không ghé vào bệnh viện mà cứ chạy đều đều, vô cùng tận mang theo cả Yến với trạng thái ngây ngất khoan khoái” [4;383].
Thời gian trong còi vô thức đã mất tính khách quan của nó, trở thành phương tiện phản ánh sự trôi dạt miên man của tâm thức con người. Dòng chảy tuyến tính của thời gian bị phá vì bởi sự xuất hiện của các mảng quá khứ, ký ức. Điều đó phù hợp với việc diễn tả tâm thức của con người trong tình trạng hôn mê, tạo nên khung cảnh huyền ảo làm nền cho nhân vật hư ảo xuất hiện.