Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Yêu cầu đặt ra cho việc xét xử phúc thẩm trong cải cách tư pháp
3.1.1. Yêu cầu bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Một trong những nguyên tắc hiến định là nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là nguyên tắc đặt nền tảng cho mọi hoạt động tố tụng hình sự, trong đó có hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc đầu tiên được quy định trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, được quy định của tại Điều 7 BLTTHS năm 2015. Bảo đảm pháp chế trong TTHS yêu cầu mọi chủ thể TTHS, trong đó có Tòa án các cấp phải tuyệt đối nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật TTHS nói riêng khi tiến hành giải quyết vụ án.
Nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi Tòa án các cấp, trong đó có Tòa án cấp phúc thẩm phải áp dụng đúng đắn và thống nhất pháp luật tố tụng hình sự trên quy mô toàn quốc đối với mọi vụ án hình sự. Để đạt được điều này, trước tiên là những người tiến hành tố tụng trong Tòa án cấp phúc thẩm phải có sự nhận thức đúng đắn, thống nhất pháp luật hình sự và pháp luật TTHS. Bởi vậy, cần phải có một hệ thống pháp luật TTHS toàn diện, đồng bộ, phù hợp. Khi có khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện, các cơ quan liên ngành cần có sự giải thích pháp luật nhanh chóng kịp thời để tạo ra sự nhận thức thống nhất và áp dụng thống nhất.
Tòa án các cấp phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, nhất là thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải nghiên cứu vụ án một cách toàn diện, đầy đủ các tình tiết các căn cứ buộc tội và gỡ tội để ra
phán quyết khách quan, kịp thời sửa chữa sai lầm của cấp sơ thẩm nếu có, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
3.1.2. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Có thể bạn quan tâm!
- Xét Xử Phúc Thẩm Trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Năm 2003
- Thực Tiễn Xét Xử Phúc Thẩm Các Vụ Án Hình Sự Ở Đồng Nai
- Một Số Tồn Tại Và Vướng Mắc Trong Thực Tiễn Xét Xử Phúc Thẩm Các Vụ Án Hình Sự Ở Tỉnh Đồng Nai Và Nguyên Nhân
- Các Giải Pháp Về Tổ Chức Bộ Máy, Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Tòa Án Nhân Dân
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 10
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 11
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
Mục đích, nhiệm vụ của hoạt động tố tụng hình sự theo Điều 2 của BLTTHS năm 2015 là: “... bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.” [25]. Như vậy, có thể thấy một trong những mục đích của hoạt động tố tụng hình sự ở ta đó là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, mục đích này được quan trọng như nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội, trong đó bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được thể hiện rò nét hơn trong mục đích, nhiệm vụ của hoạt động TTHS. Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Chính Trị đã đưa ra yêu cầu trong Nghị quyết 49 là: “Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm” [5].
Theo quy định của pháp luật, chỉ Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử mới có quyền phán quyết một người là có tội và cũng chỉ có Tòa án mới được quyền áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Đây là nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp, khẳng định vị trí, tầm quan trọng của hoạt động xét xử của Tòa án trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là một trong những giai đoạn tố tụng hình sự, là hoạt động Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị đúng luật định. Đối với kháng cáo, là quyền của
bị cáo, các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật với phạm vi và giới hạn do pháp luật quy định.
Thông qua hoạt động xét xử phúc thẩm nhằm kiểm tra hoạt động xét xử Tòa án cấp dưới, từ đó kịp thời phát hiện những sai sót của Tòa án cấp dưới để sửa chữa hoặc hủy bỏ những bản án, quyết định sai lầm nếu có. Hoạt động của Tòa án các cấp trong đó có Tòa án cấp phúc thẩm nhằm bảo đảm cho hoạt động tố tụng được thi hành đúng pháp luật và thống nhất. Đây cũng là quyền và nghĩa vụ tố tụng của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới. Một khi thực hiện tốt hoạt động xét xử phúc thẩm sẽ giảm thiểu và có thể ngăn chặn kịp thời những vi phạm về quyền con người trong xét xử.
Để bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, Tòa án cấp phúc thẩm phải đảm bảo một số nội dung sau:
Thứ nhất, đảm bảo quyền kháng cáo hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Quyền được kháng cáo trong tố tụng hình sự là một trong những hình thức, phương tiện bảo đảm và bảo vệ có hiệu quả quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thông qua quyền kháng cáo tạo ra một trong những điều kiện làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới trực tiếp. Thông qua việc xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp trên trực tiếp không chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp 1uật mà còn phát hiện, khắc phục kịp thời các thiếu sót, sai lầm về xét xử của Tòa án cấp dưới, góp phần đảm bảo nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật, nâng cao chất lượng xét xử, tăng cường hiệu quả giáo dục pháp luật và củng cố niềm tin vào công lý, công bằng xã hội cho nhân dân, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Thứ hai, HĐXXPT phải chấp hành đúng các quy định của pháp luật, công tâm, tôn trọng sự thật khách quan của vụ án, thông qua xét xử phúc thẩm, phải kịp thời phát hiện và sửa chữa những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm, để kịp thời thực hiện quyền hạn của mình thông qua các quyết định hủy án, sửa án sơ thẩm, đảm bảo cho mọi bản án, quyết định của Tòa án là có căn cứ và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
3.1.3. Đáp ứng yêu cầu mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, hệ thống các cơ quan Tư pháp của Nhà nước ta được thiết lập. Từ đó đến nay các cơ quan Tư pháp đã trải qua nhiều lần cải cách nhằm đáp ứng yêu cầu trong từng thời kỳ phát triển của đất nước cũng như đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Công tác tư pháp thực chất là hoạt động nhằm bảo vệ pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Thực hiện tốt công tác tư pháp chính là đảm bảo được quyền con người, bảo vệ công lý, loại trừ các hành vi xâm hại quyền con người, quyền lợi ích hợp pháp của công dân từ các cá nhân, tổ chức, bao gồm cả những chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tư pháp nói chung và hoạt động xét xử vụ án hình sự nói riêng vẫn còn những vướng mắc, hạn chế nhất định, làm cho hoạt động này vẫn còn tồn tại trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm hại đến quyền con người, quyền công dân, ảnh hưởng tới uy tín của các cơ quan tư pháp nói chung và TAND nói riêng.
Trong từng thời kỳ phát triển, nhằm khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong công tác tư pháp, ngày 2-1-2002, Bộ Chính trị (khóa IX) đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới”[3]. Sau hơn 3 năm thực hiện, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 2-6-2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020, với mục tiêu xác định rò là “xây dựng nền Tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động Tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [5]. Trên cơ sở đó, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật TTHS nói riêng ngày càng được chú trọng, hoạt động xét xử được xác định là trung tâm, vấn đề áp dụng pháp luật của Tòa án các cấp phải trên tinh thần cải cách tư pháp, tăng cường hiệu lực và hiệu quả.
Để đảm bảo yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp trong tình hình hiện nay, vấn đề quan trọng được đặt lên hàng đầu đó là phải đạt được mục tiêu xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật, nhất là trong lĩnh vực hình sự, chú trọng về thủ tục tố tụng hình sự, nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa tội phạm những cũng đề cao tính nhân đạo trong việc xét xử, quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Khi xây dựng pháp luật, theo hướng giảm hình phạt tù, hạn chế quy định hình phạt tử hình với một số loại tội phạm không nghiêm trọng, mở rộng áp dụng các hình phạt không tước tự do. Đặc biệt, không dân sự hóa hình sự hoặc hình sự hóa quan hệ quan hệ dân sự làm bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội. Với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện, cần quy định là tội phạm, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế.
Khoản 1, Điều 102, Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền Tư pháp”. Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020, với mục tiêu: “…hoạt động Tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [5]. Như vậy, các cơ quan Tư pháp phải làm nòng cốt và hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
phải được xem là trọng tâm. Theo tinh thần cải cách tư pháp, để hoạt động xét xử của TAND là trung tâm, thì phải xác định đúng đắn vai trò, vị trí của TAND trong hoạt động TTHS, đảm bảo thực sự là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước Việt Nam, đảm bảo hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động của TAND nói riêng, thực sự bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Yêu cầu này đặt ra cho mỗi mỗi cấp Tòa án, từ cấp sơ thẩm đến Tòa án cấp phúc thẩm, cũng như đối với những người tiến hành tố tụng, nhất là đội ngũ thẩm phán, tiếp tục thực hiện tốt chủ trương nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà.
Cải cách tư pháp hình sự phải đáp ứng yêu cầu đổi mới chính sách hình sự trong từng thời kỳ. Chính sách hình sự và thủ tục tố tụng hình sự có quan hệ chặt chẽ với nhau, Vì vậy, cải cách thủ tục tố tụng hình sự nói chung, thủ tục xét xử vụ án hình sự nói riêng phải đáp ứng kịp thời những thay đổi về chính sách hình sự trong thời kỳ tăng cường hội nhập quốc tế.
3.1.4. Yêu cầu phòng ngừa tội phạm trong giai đoạn hiện nay
Trong thời gian qua, tình hình vi phạm pháp luật nói chung và tình hình tội phạm nói riêng vẫn còn diễn biến phức tạp. Tình trạng oan, bỏ lọt tội phạm vẫn còn xảy ra, vẫn còn nhiều trường hợp áp dụng không đúng quy định của pháp luật khi xét xử vụ án hình sự. Năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ Tòa án chưa cao, vẫn còn nhiều trường hợp vi phạm pháp luật, thậm chí phải xử lý hình sự.
Nhằm chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế nêu trên, ngày 27/11/2019, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 96/2019/QH14 về công tác phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của VKSND, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án. Trong Nghị quyết nêu rò các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đối với Tòa án nhân dân tối cao: Có giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các loại án, kịp thời sửa chữa, bổ sung bản án, hạn chế đến mức thấp nhất các bản án bị hủy, sửa vì nguyên nhân chủ quan, chỉ tiêu đặt ra là
không vượt quá 1,5% tổng số án giải quyết. Trong khi xét xử vụ án hình sự, bảo đảm sự nghiêm minh, xét xử đúng pháp luật, không để xảy ra tình trạng án oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Đối với các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, các vụ án gây dự luận xã hội nghiêm trọng… cần đẩy nhanh tiến độ xét xử, thu hồi tài sản do phạm tội mà có. Tòa án chủ trì, phối hợp giải quyết dứt điểm các đơn khiếu nại, kêu oan [29]. Để thực hiện được những giải pháp mà Nghị quyết đặt ra, đòi hỏi các Tòa án phải thực hiện đúng các quy định của BLTTHS về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cũng như xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự
3.2.1.1. Hoàn thiện quy định của BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều điểm mới tiến bộ, hoàn thiện hơn so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, để có thể áp dụng chính xác và thống nhất, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định sau:
Thứ nhất, về đối tượng, thẩm quyền kháng cáo, kháng nghị và hình thức kháng cáo, kháng nghị:
BLTTHS năm 2015 không có một điều luật riêng nào quy định về đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Việc xác định đối tượng của kháng cáo, kháng nghị được suy ra từ quy định tại khoản 2 Điều 330 BLTTHS 2015 “Quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị là quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này” [25]. Như vậy, dựa trên Điều luật nêu trên, thì đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm bao gồm: Quyết định tạm đình chỉ vụ án; Quyết định đình chỉ vụ
án; Quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo; Quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và Quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định tại Bộ luật TTHS. Tuy nhiên, việc dựa vào quy định này để xác định đối tượng kháng cáo, kháng nghị cũng có hạn chế, bởi khoản 2 Điều 330 BLTTHS có quy định “…quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này”.
Như vậy, quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của BLTTHS có thể bị kháng cáo, kháng nghị là những quyết định nào, bởi lẽ quy định trên mang tính khái quát, trong khi đối với kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là một trong những quy định quan trọng để bảo vệ quyền con người, tránh oan, sai.
BLTTHS năm 2015 quy định về thẩm quyền kháng cáo còn một điểm mâu thuẫn giữa khoản 1 Điều 331 và khoản 2 Điều 357. Theo khoản 1 Điều 331 BLTTHS 2015 quy định “bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Quy định này là hợp lý. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 357 BLTTHS 2015 lại chỉ quy định “trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu”. Như vậy, quy định này chưa phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 331, nếu như khoản 1 Điều 331 quy định cho bị hại và người đại diện của họ có quyền kháng cáo thì khoản 2 Điều 357 lại chỉ quy định “bị hại kháng cáo theo yêu cầu thì HĐXX phúc thẩm có thể tăng hình phạt…” mà không có quy định người đại diện của họ có quyền kháng cáo. Theo tác giả, nên bổ sung ở khoản 2 Điều 357 BLTTHS theo hướng “Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể tăng hình phạt…”. Quy định như vậy mới đảm bảo quyền kháng cáo của bị hại trong trường hợp họ có người đại diện hợp pháp.
Thứ hai, về hình thức kháng cáo, như đã phân tích ở mục 2.2 chương 2, thì việc quy định chủ thể thực hiện quyền kháng cáo ngoài việc kháng cáo