kiểm tra, kiểm soát tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam . Tăng cường vai trò của NHNN trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa. Kiện toàn công tác thanh tra, giám sát hoạt động tài chính, tiền tệ.
Về thị trường, chiến lược cũng đề cập đến việc tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Phát triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô tăng nhanh, phạm vi hoạt động mở rộng, vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả. Phát triển và kiểm soát có hiệu quả thị trường chứng khoán.
Về dịch vụ tài chính, ngân hàng chiến lược cũng xác định như sau:
- Dịch vụ ngân hàng: phát triển ổn định và bền vững hệ thống ngân hàng là yêu cầu xuyên suốt chiến lược và quá trình thực hiện chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng; nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
- Dịch vụ chứng khoán: tăng quy mô, củng cố tính thanh khoản cho thị trường, đưa tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt từ 80% đến 110% GDP vào năm 2020. Phát triển thị trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu chính phủ trở thành một kênh huy động và phân bổ vốn quan trọng cho phát triển kinh tế. Nâng cao sức cạnh tranh của các định chế trung gian thị trường và các tổ chức phụ trợ, tăng cường quản trị rủi ro, hướng tới hoạt động theo mô hình đa năng, mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngoài.
- Đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ thông qua các hoạt động dịch vụ du lịch, tài chính – ngân hàng, kiều hối, bưu chính viễn thông, vận tải hàng không, đường biển và bán hàng tại chỗ, giảm thâm hụt cán cân dịch vụ.
Tóm lại, chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2020 của chính phủ đã chỉ rõ hoạt động ngành ngân hàng là phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Do đó mỗi NHTM phải xây dựng chiến lược phát triển thích hợp theo hướng lành mạnh hóa cơ cấu tài chính, nâng cao năng lực tài chính, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nâng cao các tỷ lệ an toàn hoạt động, mở rộng mạng lưới, nâng cao năng lực quản lý cũng như xây dựng chiến lược hội nhập tài chính quốc tế.
3.1.2. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2020
Có thể bạn quan tâm!
- Thống Kế Số Lượng Sản Phẩm Dịch Vụ Chủ Yếu Của Nhtm Cp
- Tăng Trưởng Vốn Và Lợi Nhuận Một Số Nhtm Cp Tại Tp. Hcm
- Hạn Chế Về Hệ Thống Mạng Lưới Và Hợp Tác Quốc Tế
- Hội Đồng Quản Trị Tập Đoàn Và Các Hội Đồng/ Ủy Ban Trực Thuộc
- Hoàn Thiện Cơ Cấu Tổ Chức, Bộ Máy Quản Lý Và Phát Triển Nhân Lực
- Hiện Đại Hóa Hệ Thống Công Nghệ Thông Tin Ngân Hàng
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 24/5/2006 đã đề ra mục tiêu những mục tiêu quan trọng để phát triển ngành ngân hàng, cụ thể đến năm 2020 ngành ngân hàng cần phải:
- Cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện các TCTD theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong khu vực ASEAN với cấu trúc đa dạng về sở hữu, về loại hình TCTD, có quy mô hoạt động lớn hơn, tài chính lành mạnh, đồng thời tạo nền tảng đến sau năm 2010 xây dựng được hệ thống các TCTD hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực châu Á, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới; bảo đảm các TCTD, kể cả các TCTD nhà nước hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường và vì mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận; phát triển hệ thống TCTD hoạt động an toàn và hiệu quả vững chắc dựa trên cơ sở công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động NHTM [29].
- Chính phủ sẽ tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống ngân hàng; tạo điều kiện cho các TCTD trong nước nâng cao năng lực quản lý, trình độ nghiệp vụ và khả năng cạnh tranh; bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết của Việt Nam với quốc tế; gắn cải
cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước; tiếp tục củng cố, lành mạnh hoá và phát triển các ngân hàng cổ phần.
- Phương châm hành động của các TCTD là “An toàn - Hiệu quả - Phát triển bền vững - Hội nhập quốc tế” [20].
Trong Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015 chính phủ đưa ra mục tiêu là cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam, đây là việc làm thường xuyên để đến năm 2020 các TCTD phát triển đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả. Về cấu trúc thì các TCTD có cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ có các ngân hàng lớn, hoạt động hiệu quả vai trò làm trụ cột trong hệ thống và có khả năng cạnh tranh trong khu vực. Đồng thời có những ngân hàng vừa và nhỏ, tổ chức tín dụng phi ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu dịch vụ ngân hàng của mọi tầng lớp trong xã hội.
Riêng giai đoạn 2011 – 2015 sẽ tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng, trong đó chú ý cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng. Đồng thời nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng. Phấn đấu đến cuối năm 2015 hình thành được ít nhất 1 - 2 ngân hàng thương mại có quy mô và trình độ tương đương với các ngân hàng trong khu vực.
Bên cạnh đó đề án cũng khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức tín dụng theo nguyên tắc tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên có liên quan theo quy định pháp luật. Để tránh ảnh hưởng xáo trộn hệ thống, một số tổ chức tín dụng rủi ro, có nguy cơ mất an toàn cao sẽ được áp dụng các biện pháp xử lý đặc biệt. Thực ra không phải đợi đến khi đề án ra đời mà từ năm 2007, Chính phủ đã chỉ đạo hai NHTM lớn của Việt Nam hình thành tập đoàn TC-NH là BIDV và Vietcombank.
Trong đó Thủ tướng giao cho NHNN và Bộ Tài chính phối hợp hai NHTM trên khẩn trương chuẩn bị các điều kiện hoạt động của tập đoàn ngân hàng như: Điều lệ, quy chế tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự... để hình thành tập đoàn TC-NH Việt Nam.
Về tài chính và hoạt động thì sẽ thực hiện cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động, quản trị của các tổ chức tín dụng theo các hình thức, biện pháp và lộ trình thích hợp với đặc điểm cụ thể của từng tổ chức tín dụng. Đặc biệt là không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Quá trình chấn chỉnh, củng cố và cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng hạn chế tới mức thấp nhất tổn thất và chi phí của ngân sách nhà nước cho xử lý những vấn đề của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Tóm lại qua chỉ đạo của chính phủ và chiến lược của NHNN gần đây cho thấy sự quyết tâm cao độ trong việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, tiến tới thiết lập hệ thống các tổ chức tín dụng an toàn, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao và hội nhập quốc tế, đặc biệt sẽ hình thành một vài ngân hàng lớn, như những tập đoàn TC-NH trên thế giới, có quy mô, trình độ tương đương các ngân hàng khu vực, thông qua sáp nhập, hợp nhất và chấn chỉnh nhằm giữ vai trò chủ đạo và ổn định sự phát triển hệ thống.
3.2. ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN TC-NH TỪ NHTM CP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.2.1. Đề xuất mô hình tập đoàn TC-NH
Hiện nay trên thế giới có nhiều mô hình tập đoàn ngân hàng khác nhau: mô hình ngân hàng đa năng, mô hình theo cấu trúc sở hữu tài chính, mô hình công ty mẹ - công ty con…và việc lựa chọn một mô hình tập đoàn TC-NH chuẩn nhất là điều không đơn giản bởi lẻ không thể duy ý chí, bắt buộc các NHTM tuân theo một mô hình nào đó mà chính bản thân mô hình đó cũng chưa được thừa nhận, chưa kiểm nghiệm.
Thực tế cho thấy mô hình tập đoàn TC-NH lấy NHTM làm trung tâm là bởi NHTM có quy mô nguồn vốn lớn, phạm vi hoạt động rộng, khả năng chi phối thị trường cao. Điểm nổi bật khác biệt rõ nét giữa hoạt động của một NHTM truyền thống với một tập đoàn TC-NH là tính chuyên môn hóa, tách biệt giữa nghiệp vụ ngân hàng với các nghiệp vụ phái sinh, các chức năng ngoài hoạt động truyền thống ngân hàng, như bảo hiểm, chứng khoán, môi giới kinh doanh, đại lý bảo hiểm và đầu tư khác được NHNN cho phép.
Trong phạm vi nghiên cứu mô hình hoạt động NHTM CP trên địa bàn TP. HCM cũng như trong cả nước cho thấy hầu hết các NHTM CP đều có mô hình tổ chức như quy định pháp luật, tức là bao gồm hai cấp:
- Đại hội đồng cổ đông và HĐQT
- Ban Điều hành, các phòng ban chức năng và các đơn vị trực thuộc
Tuy nhiên do hoạt động ngân hàng là một loại hình hoạt động đặc thù nên có một số khác biệt so các loại hình doanh nghiệp khác, tức là ngân hàng vừa bị chi phối bởi luật Doanh nghiệp, vừa chi phối bởi Luật các TCTD. Vì vậy về mặt lý luận và căn cứ thực tiễn hoạt động của các NHTM CP trên địa bàn, trước hết việc lựa chọn mô hình tập đoàn TC-NH cần được xác định trên các nguyên tắc sau:
- Kế thừa và phát huy những ưu điểm của mô hình tổ chức hiện hành, tức là mô hình hoạt động 2 cấp theo quy định trên vẫn đang vận hành, tăng cường quản lý và giám sát từ cơ quan quản lý nhà nước
- Không rập khuôn theo mô hình của bất kỳ NHNNg nào vì tùy thuộc vào trình độ và sức phát triển của mỗi quốc gia, tùy vào thời điểm, trình độ phát triển cụ thể và sự hoàn thiện của các thể chế pháp lý mà lựa chọn mô hình thích hợp, không thể áp một mô hình nào đó của Citibank, HSBC hay OCBC vào Việt Nam.
- Tập trung chức năng quản lý cần thiết và chủ yếu tại ngân hàng gốc của tập đoàn. Do lựa chọn ngân hàng và lấy ngân hàng làm chủ đạo nên việc quản lý ngân hàng là hết sức cần thiết. Ổn định hoạt động NHTM sẽ góp phần ổn định các thành viên trực thuộc.
- Bộ máy tổ chức phải gọn nhẹ, không trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Tức là tập đoàn phải hoạch định và phân biệt rạch ròi chức năng của NHTM và chức năng từng thành viên, chức năng của ngân hàng và chức năng chung cả tập đoàn, thông qua cơ chế giám sát chặt chẽ.
- Phù hợp với luật pháp Việt Nam và thông lệ quốc tế. Tập đoàn TC-NH dù chưa được thừa nhận nhưng từng thành viên trong tổ chức tập đoàn vẫn là những doanh nghiệp có đầy đủ tư cách pháp nhân, độc lập và chịu trách nhiệm bình đẳng trước pháp luật. Vì vậy trước hết phải tuân thủ các quy định pháp luật Việt Nam, thông lệ quốc tế và tiệm cận các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng.
- Không xa rời hoạt động cơ bản của ngân hàng và cũng không quá mở rộng các nghiệp vụ ngoài ngân hàng, vì như vậy rất khó kiểm soát dễ dẫn đến rủi ro.
Thực tế cho thấy ở Việt nam nói chung và ở TP. HCM nói riêng, các NHTM CP hoạt động khá nhiều lĩnh vực ngoài nghiệp vụ chính. Ví dụ như thành lập công ty con, hoặc công ty liên kết để hoạt động kinh doanh bất động sản, kinh doanh du lịch - khách sạn - nhà hàng, kinh doanh xuất nhập khẩu vàng bạc đá quý, kinh doanh cho thuê kho bãi.
Từ những nguyên tắc cơ bản trên và qua nghiên cứu thực tế hoạt động NHTM CP, để đảm bảo tất các các yếu tố trên được vận hành một cách hài hòa thì theo tác giả, các NHTM CP có thể hình thành theo mô hình như sau:
Tập đoàn TC-NH hình thành theo mô hình cấu trúc sở hữu tài chính nhưng tập trung quyền lực và hoạt động như mô hình công ty mẹ - con. NHTM CP đóng vai trò trung gian nhưng được phép tập trung quyền lực để chi phối, giữ vai trò hạt nhân của tập đoàn. Hoạt động theo hình thức công ty mẹ - con có nghĩa là NHTM CP sở hữu cổ phần của các công ty trực thuộc. Công ty mẹ không trực tiếp quản lý hoạt động các công ty thành viên nhưng có thể can thiệp vào mọi quá trình hoạt động của công ty thành viên thông qua các quy tắc ứng xử và thể chế được thiết lập chung cho tập đoàn.
Như vậy có thể xem:
- Tập đoàn TC-NH nên là một tổ hợp như công ty mẹ - con, trong đó NHTM CP đóng vai trò ngân hàng mẹ và các thành viên là công ty con
Ngân hàng mẹ có tư cách pháp nhân, kế thừa quyền và nghĩa vụ hợp pháp của NHTM CP trước khi chuyển đổi. Bộ máy quản lý của ngân hàng mẹ chính là bộ máy quản lý của tập đoàn. Tập đoàn sử dụng bộ máy điều phối của ngân hàng mẹ làm cơ quan giúp việc quản lý điều hành và tư vấn chuyên môn.
Cấu trúc của công ty mẹ (NHTM CP) gồm: HĐQT thực hiện chức năng quản lý tập đoàn; Ban kiểm soát thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động của tập đoàn; Tổng giám đốc thực hiện chức năng điều hành tập đoàn; văn phòng tập đoàn và các ban chức năng là bộ phận tham mưu giúp việc cho ban lãnh đạo tập đoàn.
- Các thành viên (công ty con) độc lập trực tiếp kinh doanh dịch vụ tài chính phi ngân hàng.
Các thành viên ở đây được hiểu là các công ty con do chính ngân hàng lập ra nhưng cũng có thể là các công ty mà NHTM CP góp vốn liên doanh liên kết theo pháp luật, cũng có thể là các công ty mà NHTM CP chưa có quan hệ chủ sở hữu nhưng các bên cùng tự nguyện đứng chung tập đoàn để khai thác lợi thế thương mại lẫn nhau.
- Xu hướng hoạt động là một tổ hợp bán lẻ, đa năng và hiện đại phù hợp nhu cầu thị trường cũng như yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
Cùng với xu thế phát triển đời sống kinh tế xã hội, nhu cầu khách về dịch vụ tiền tệ ngân hàng ngày càng phong phú và đa dạng. Do vậy việc hình thành một tổ hợp bán lẻ đa năng là cần thiết nhằm phục vụ trọn gói nhu cầu khách hàng, tất nhiên phải dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại và đó cũng là xu hướng bắt buộc cho tập đoàn TC-NH, vừa không tách rời chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng lại vừa mở rộng mạng lưới vừa đa dạng hóa sản phẩm. (xem sơ đồ 3.1).
Hình 3.1: Mô hình tập đoàn TC-NH tại TP. HCM
CỔ ĐÔNG
CÔNG TY MẸ
(Ngân hàng)
NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN, BẢO HIỂM
CÔNG TY CON KHÁC
(Nguồn: tổng hợp của tác giả) [61]
3.2.2. Cấu trúc bộ máy quản lý tập đoàn TC-NH
Theo mô hình trên thì tập đoàn TC-NH sẽ có ba cấp quản lý: