lý hoàn chỉnh cho các công ty bảo hiểm thực hiện hoạt động cho vay theo Luật kinh doanh bảo hiểm. Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành các văn bản quy định về tỷ lệ tài sản rủi ro so với tổng tài sản của công ty bảo hiểm và hướng dẫn việc trích lập dự phòng rủi ro cho hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng để các công ty bảo hiểm có cơ sở thực hiện và có cơ chế để xử lý rủi ro khi rủi ro phát sinh.
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong phê duyệt và thực hiện các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư bất động sản; nâng dần và đi tới xoá bỏ hạn chế về đầu tư gián tiếp, đặc biệt là tỷ lệ góp vốn của các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp trong nước…
Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ, ưu tiên phát triển các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có tính chất đầu tư dài hạn; khuyến khích các công ty bảo hiểm nghiên cứu triển khai các sản phẩm bảo hiểm nông, lâm, ngư nghiệp, chú trọng mở rộng phạm vi hoạt động đến các vùng sâu, vùng xa.
Nghiên cứu để tiến tới áp dụng quy định về định giá danh mục đầu tư nhằm xác định chính xác chất lượng đầu tư và gắn chất lượng đầu tư với khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm.
Nhà nước có cơ chế, chính sách để các công ty bảo hiểm tự bổ sung vốn điều lệ cho phù hợp với tính chất hoạt động và quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước không trực tiếp đầu tư thêm vốn vào lĩnh vực môi giới bảo hiểm. Công ty bảo hiểm được thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín thác mà Công ty quản lý theo quy định của pháp luật. Cần cho phép những công ty bảo hiểm lớn thành lập NHTM và các NHTM thành lập công ty bảo hiểm. Họ sẽ trở thành TĐTC mạnh như mô hình của các nước trong khu vực và thế giới.
Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh, kể cả ở thị trường bảo hiểm quốc tế và khu vực, tham gia
góp vốn vào các Công ty bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, tái bảo hiểm đang hoạt động thành công ở nước ngoài và thành lập các Công ty con kinh doanh bảo hiểm ở nước ngoài.
Những hạn chế mang tính phân biệt đối xử về đầu tư giữa công ty bảo hiểm trong và ngoài nước cần được xoá bỏ. Các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng phí bảo hiểm thu được để đầu tư tại Việt Nam được áp dụng các cơ chế, chính sách về đầu tư các công ty bảo hiểm trong nước.
Việc cấp phép thành lập cho các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam phải phù hợp với quy mô, yêu cầu phát triển của thị trường, lộ trình hội nhập và các cam kết quốc tế.
Khuyến khích các công ty bảo hiểm hiện đại hoá công nghệ quản lý kinh doanh, đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ theo các chuẩn mực quốc tế, được thuê chuyên gia trong nước và ngoài nước để quản lý một số lĩnh vực hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.
Có thể bạn quan tâm!
- Vài Nét Về Hoạt Động Kinh Doanh Của Citibank
- Prudential – “Luôn Luôn Lắng Nghe, Luôn Luôn Thấu Hiểu”
- Bài Học Kinh Nghiệm Cho Việt Nam Từ Nghiên Cứu Các Tập Đoàn Tài Chính Trên Thế Giới
- Nghiên cứu hoạt động của một số tập đoàn tài chính trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam - 12
- Nghiên cứu hoạt động của một số tập đoàn tài chính trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
Nhà nước giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua hệ thống các chỉ tiêu về hoạt động của các công ty bảo hiểm và kiểm tra, xử lý vi phạm theo pháp luật, không can thiệp hành chính vào hoạt động của các doanh nghiệp. Đặc biệt, cần chú trọng kiểm tra việc cho vay mượn theo hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, nhằm đảm bảo cho vay đúng mục đích, đúng đối tượng, tránh thất thoát tài sản…
2.2 Về phía Bảo Việt
Kể từ tháng 1/2006, hoạt động kinh doanh của Bảo Việt đã được tổ chức theo mô hình TĐTC với vốn điều lệ là 3.000 tỷ VND (tức 200 triệu USD). Bảo Việt đang phấn đấu để trở thành TĐTC đa ngành hàng đầu Việt Nam, hoạt động chính trên lĩnh vực bảo hiểm và đầu tư tài chính, chiếm thị phần lớn nhất về bảo hiểm, có tiềm lực tài chính mạnh, trình độ công nghệ và
trình độ quản lý tiên tiến, có khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế, liên tục tăng trưởng, hiệu quả và phát triển bền vững.
2.2.1 Về tổ chức hoạt động
Phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và các kênh phân phối khác. Đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
Hiện nay đã có 8 công ty bảo hiểm nhân thọ trên thị trường Việt Nam, do vậy quá trình kinh doanh ngày càng cạnh tranh gay gắt. Việc hạch toán độc lập của Bảo Việt Nhân thọ sẽ tạo thêm sức bật mới cho Bảo Việt từng bước thực hiện việc chuyên môn hoá cao trong các lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, đầu tư tài chính đồng thời tạo được sức mạnh đa ngành của cả tập đoàn. Việc chuyên môn hoá này cũng sẽ giúp Bảo Việt Nhân thọ có điều kiện nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng, thiết kế sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đáp ứng nhu cầu thiết thực, gần gũi và vì lợi ích của hàng triệu người dân Việt Nam. Mục tiêu của Bảo Việt là đem đến cho khách hàng những sản phẩm tài chính tích hợp chất lượng cao - dịch vụ 1 cửa, vượt trội so với các nhà cung cấp khác.
2.2.2 Đối phó với cạnh tranh
Hiện nay thị trường bảo hiểm Việt Nam còn 95% thị trường chưa được khai thác. Đây là cơ hội lớn cho các công ty bảo hiểm quốc tế nhảy vào thị trường nước ta. Hơn nữa, theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ thực sự mở cửa hoàn toàn kể từ ngày 1/1/2008. Kể từ mốc thời gian này, các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm bắt buộc ở nước ta. Và như vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, trong đó có Bảo Việt, sẽ phải đối mặt với thách thức không nhỏ là cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài “nhiều tiền, lắm kinh nghiệm”. Đứng trước nguy cơ này,
tập đoàn Bảo Việt cần phải có những chính sách và hướng đi thích hợp để đối phó với sự cạnh tranh của các tập đoàn quốc tế mạnh như Prudential, AIA (Mỹ), ACE (Mỹ). Bảo Việt cần tập trung vào các công việc chính như: phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao phù hợp với yêu cầu phát triển của TĐTC; bảo hiểm kinh doanh đa ngành; tăng cường và đổi mới ứng dụng tin học trong quản lý, trong đó chú trọng xây dựng hệ thống tin học quản lý điều hành chung cho cả Tập đoàn và đổi mới ứng dụng tin học quản lý tài chính kế toán, tin học quản lý các lĩnh vực kinh doanh mới như bảo hiểm nhân thọ, ngân hàng, quản lý quỹ... Có như vậy, Bảo Việt mới nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung cấp cho khách hàng, liên tục tạo ra sự khác biệt, tăng cường năng lực cạnh tranh, chuyên nghiệp hoá trong quản trị điều hành kinh doanh và giữ vững vị thế là Tập đoàn cung cấp các dịch vụ tài chính - Bảo hiểm hàng đầu tại Việt Nam và khu vực.
- Về sản phẩm: Để phát triển một danh mục sản phẩm bảo hiểm đa dạng của từng nhóm đối tượng phục vụ khách hàng thuộc phân đoạn thị trường mục tiêu với mức phí bảo hiểm hợp lý và cạnh tranh, Bảo Việt cần nghiên cứu nhu cầu bảo hiểm của khách hàng thuộc từng phân đoạn thị trường mục tiêu để xây dựng chiến lược sản phẩm đúng đắn và kế hoạch thực hiện cho từng nhóm sản phẩm, loại sản phẩm riêng biệt. Bên cạnh đó, tập đoàn cũng nghiên cứu thiết kế các sản phẩm bảo hiểm mới mà thị trường Việt Nam chưa triển khai như bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm…; thực hiện chính sách khuyến khích, hỗ trợ trong việc triển khai các sản phẩm mới; mặt khác, cần rà soát lại toàn bộ danh mục sản phẩm hiện có của Bảo Việt để có những cải tiến, kết cấu lại sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường và đặc thù của Bảo Việt. Việc đưa các ý tưởng sáng tạo vào khâu thiết kế sản phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm của Bảo Việt so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, chẳng hạn phát triển sản phẩm bảo
hiểm trọn gói cho một nhóm đối tượng khách hàng đặc thù như các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình…
- Về dịch vụ khách hàng: xây dựng các giải pháp cung cấp dịch vụ khách hàng liên hoàn và đồng bộ trong suốt một chu trình bảo hiểm, từ khâu khai thác, giám định, bồi thường tới các dịch vụ giá trị tăng thêm sau bán hàng; xây dựng, củng cố mạng lưới tiếp nhận khai báo tai nạn, giải quyết bồi thường; Thiết lập đường dây nóng hoặc trung tâm dịch vụ khách hàng qua điện thoại nhằm giải đáp mọi thắc mắc và đưa ra ý kiến tư vấn cho khách hàng một cách kịp thời đối vớí mọi vấn đề liên quan tới sản phẩm của Bảo Việt.
- Về thị trường: Xác định, đánh giá tiềm năng các địa bàn trọng điểm để phát triển mạng lưới kinh doanh phù hợp; Thực hiện phân đoạn thị trường, xác định khách hàng mục tiêu của từng phân đoạn thị trường; Xây dựng thị trường chiến lược cho từng giai đoạn cụ thể nhằm tập trung nguồn lực ở mức cao nhất; Xâm nhập, mở rộng và phát triển thị trường cả trong và ngoài nước.
- Về lĩnh vực kinh doanh: Tiếp tục mở rộng các lĩnh vực tài chính khác như ngân hàng, cho thuê tài chính, bảo hiểm y tế cộng đồng, bất động sản...
2.2.3 Tận dụng lợi thế
Ở Việt Nam, đa số người dân hầu như chưa hiểu biết về lĩnh vực bảo hiểm, nên sự tiếp nhận với sản phẩm bảo hiểm cũng gặp nhiều trục trặc, lắm khi dẫn tới hiểu lầm. Trong khi, quan niệm về bảo hiểm nhân thọ chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1996, chưa thể đòi hỏi tỉ lệ hiểu biết cao hơn được. Vì vậy, Bảo Việt cần có những buổi thảo luận, tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho người dân, giúp người dân không còn xa lạ với thuật ngữ bảo hiểm.
Tiềm năng thị trường để Bảo Việt khai thác là rất lớn. Ngày nay khi mà đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, thu nhập tăng nhất là khu vực thành thị, người dân ngày càng quan tâm hơn đến việc tích luỹ, phòng
ngừa rủi ro, tai nạn, chăm lo giáo dục cho con em họ trong tương lai. Do đó, họ có nhu cầu mua bảo hiểm để đảm bảo cuộc sống tương lai của mình và gia đình mình. Đây là cơ hội để Bảo Việt tung ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển mạnh trong thời gian tới. Bảo Việt cần nghiên cứu xây dựng các sản phẩm bảo hiểm, sản phẩm tài chính và sản phẩm bảo hiểm tài chính kết hợp phù hợp với nhu cầu đa dạng của khách hàng. Bảo Việt cũng cần rà soát, cải tiến thủ tục bồi thường để tạo thuận lợi cho khách hàng, đồng thời, đảm bảo tuân thủ chặt chẽ các quy định của nhà nước và hạn chế đến mức thấp nhất khả năng trục lợi bảo hiểm.
Mặt khác, tâm lý của người dân Việt Nam thường mua thích mua sản phẩm bảo hiểm của những công ty Việt Nam. Bảo Việt cần tận dụng lợi thế này để tạo lòng tin cho người tiêu dùng. Bởi vì các sản phẩm của các công ty bảo hiểm quốc tế thường đa dạng và có những chính sách ưu đãi khá hấp dẫn cho khách hàng. Ưu thế của các tập đoàn bảo hiểm quốc tế là họ có tiềm lực vốn mạnh, có bề dày kinh nghiệm chinh chiến nhiều thị trường thế giới và có đội ngũ nhân viên năng động, sáng tạo, tài giỏi đến từ nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, mỗi bước sơ hở trên thị trường là các tập đoàn này có thể chiếm lĩnh được. Tập đoàn Bảo Việt tuy tiềm lực chưa mạnh bằng các Tập đoàn bảo hiểm lớn trên thế giới nhưng họ có lợi thế là sân nhà, hiểu được nhu cầu và tâm lý của người dân Việt Nam.
2.2.4 Công tác quản lý
Đối với công tác quản lý, Bảo Việt cần đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng, ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức cho toàn thể cán bộ công nhân viên, cũng như đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế cận; tiếp tục chỉ đạo các đơn vị, Công ty bảo hiểm thuộc hệ thống Bảo Việt thực hiện công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo đúng các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước. Mô hình phân cấp quản lý giữa các đơn vị thành viên cần tiếp tục được hoàn thiện cho hợp lý, dễ quản lý và mang lại hiệu quả kinh doanh.
Bên cạnh đó, vấn đề xây dựng văn hoá doanh nghiệp cũng cần chú trọng. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam còn ít quan tâm đến vấn đề này, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bảo Việt hiện là một tập đoàn có quy mô lớn, do vậy văn hoá doanh nghiệp là nền tảng để Bảo Việt phát triển đi lên có định hướng. Nó sẽ tạo nên một nét đặc trưng riêng của Bảo Việt là ưu thế khi Bảo Việt mở rộng thị trường sang các nước khác trên thế giới.
2.2.5 Hoạt động đầu tư tài chính
Hoạt động đầu tư là một lĩnh vực hoạt động có tầm quan trọng sống còn đối với việc duy trì và phát triển của một doanh nghiệp nói chung và của Tập đoàn Bảo Việt nói riêng. Hoạt động đầu tư không những giúp Bảo Việt có được khoản lợi nhuận thường xuyên trong khi vẫn đảm bảo khả năng thanh toán các hợp đồng bảo hiểm mà còn giúp quảng bá rộng rãi hình ảnh của Tập đoàn Bảo Việt trên thị trường tài chính - bảo hiểm. Đồng thời, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, đầu tư chính là một loại vũ khí lợi hại giúp Bảo Việt đứng vững và tiếp tục phát triển. Bảo Việt cần chuyên nghiệp hoá hoạt động đầu tư tài chính, đa dạng hoá danh mục đầu tư (đầu tư vào thị trường tiền tệ, bất động sản, chứng khoán, đầu tư vào cho các tổ chức là khách hàng của Bảo Việt nhằm mục đích hỗ trợ khai thác bảo hiểm…); tăng cường kiểm soát rủi ro trước và sau khi đưa ra quyết định đầu tư để đảm bảo an toàn cho nguồn vốn đầu tư; cân đối dòng tiền tạo ra từ hoạt động đầu tư tài chính với nhu cầu chi trả bảo hiểm để quản lý rủi ro mất cân đối giữa tài sản và trách nhiệm.
2.2.6 Quan hệ cộng đồng
Bảo Việt cần tiếp tục đưa ra các chương trình hay các hoạt động xã hội cho cộng đồng. Điều này sẽ là sợi dây tình cảm gắn kết Bảo Việt với người
dân. Các chương trình mà Bảo Việt có thể xây dựng như: tặng học bổng cho học sinh, sinh viên có thành tích xuất sắc trong học tập, các chương trình từ thiện cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, tài trợ tài chính đối với công tác xã hội,... Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác truyền thông kể cả truyền thông động và tĩnh. Việc mở rộng quan hệ cộng đồng sẽ giúp nâng cao uy tín và thương hiệu của Bảo Việt.
II. Giải pháp xây dựng Tập đoàn tài chính – Ngân hàng ở Việt Nam
1. Những thuận lợi và khó khăn trong việc xây dựng Tập đoàn tài chính – Ngân hàng ở Việt Nam
1.1 Khó khăn
Xây dựng và phát triển thành TĐTC - NH trong điều kiện hiện tại của nền kinh tế nước ta là một thử thách khó khăn đối với các NHTM Việt Nam.
Thứ nhất, TĐTC - NH ở thời điểm hiện tại chưa hội tụ đầy đủ các yếu tố, điều kiện cấu thành cho sự ra đời và phát triển của TĐTC - NH, trong đó, quan trọng nhất là cơ chế quản lý lĩnh vực ngân hàng chưa chuyển hẳn sang cơ chế kinh tế thị trường mà còn nặng tính mệnh lệnh, hành chính và bao cấp. Tiềm lực tài chính của các NHTM chưa mạnh: sản phẩm dịch vụ còn đơn điệu, nghèo nàn và chưa có thương hiệu; loại hình sở hữu ngân hàng mới bước đầu được đa dạng hoá và chưa phát triển theo chiều sâu. Môi trường, thể chế phục vụ các hoạt động của TĐKT chưa hoàn thiện, chất lượng thấp, không phù hợp với thông lệ quốc tế… Hơn thế, việc thành lập ồ ạt, mang tính phong trào và mệnh lệnh hành chính các Tổng công ty 90, 91 thời gian qua đã và đang lộ dần những bất cập về phương thức quản trị và điều hành TĐKT, nhất là quản trị và điều hành mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con; hiệu quả kinh tế chưa đạt được mục tiêu như mong đợi.
Thứ hai, những bất cập trong nội tại ngành ngân hàng là rào cản lớn nhất trong xây dựng TĐTC - NH mạnh ở Việt Nam. Quá trình đổi mới cơ cấu