trong hoạt động kinh doanh của mình. Tính đến hết tháng 8/2007, tổng doanh thu của Bảo Việt ước đạt 4.800 tỷ đồng, bằng 66% kế hoạch kinh doanh cả năm. Trong đó, doanh thu phí bảo hiểm gốc phi nhân thọ ước đạt 1.442 tỷ đồng, doanh thu bảo hiểm gốc nhân thọ ước đạt 2.124 tỷ đồng, dẫn đầu thị trường bảo hiểm Việt Nam. Doanh thu đầu tư tài chính ước đạt 1.033 tỷ đồng. Việc chuyển đổi và vận hành theo mô hình TĐTC - Bảo hểm của Bảo
Việt sẽ tạo điều kiện cho Bảo Việt phát huy được lợi thế về quy mô kinh doanh, đa dạng hoá ngành nghề và liên minh chiến lược, bảo đảm duy trì được lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập về tất cả các mặt hiệu quả, chất lượng, đổi mởi và đáp ứng kỳ vọng của khách hàng. Hiện chỉ có duy nhất Bảo Việt Nhân thọ là doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh ngang ngửa với các “đại gia” về bảo hiểm nhân thọ nước ngoài như Prudential, Manulife, AIA…
Trước ngưỡng cửa Việt Nam gia nhập WTO, việc Bảo Việt trở thành TĐTC - Bảo hiểm đã tạo cơ hội cho tập đoàn mở rộng khả năng thu hút công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới để nâng cao năng lực cạnh tranh của Bảo Việt thông qua tìm kiếm đối tác chiến lược nước ngoài.
4. Triển vọng xây dựng Tập đoàn tài chính – Ngân hàng ở Việt Nam
Trải qua gần 20 năm đổi mới, hệ thống ngân hàng đã trải qua các giai đoạn phát triển, với bao khó khăn và thử thách mới có được những thành tựu nhất định như ngày hôm nay nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Các ngân hàng đã từng bước vươn lên thể hiện qua các mặt hoạt động, kinh doanh có hiệu quả, nâng cao tính an toàn, phát triển đa dạng các dịch vụ, ứng dụng các công nghệ ngân hàng tương đối hiện đại, mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ thông tin như hệ thống Core - Banking để nâng cao chất lượng thông tin quản lý ứng dụng công nghệ hiện đại của ngành ngân hàng. Tuy nhiên, nhìn chung, năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập sắp
tới, nếu xét về năng lực cạnh tranh tổng thể cũng như về lợi thế cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam hiện còn rất yếu. Tiềm lực tài chính của các NHTM Việt Nam là quá nhỏ bé, thậm chí tiềm lực tài chính của khu vực tài chính lại thua xa khu vực công nghiệp. Trong khi đó, ở những nước công nghiệp hoá, tư bản tài chính phải có mức tích luỹ lớn hơn nhiều tư bản công nghiệp để có thể thực hiện cách mạng công nghiệp và tiến trình công nghiệp hoá. Vai trò của khu vực tài chính đối với nền kinh tế là đặc biệt quan trọng, nhất là đối với những nước chưa có các kênh phân phối vốn hiệu quả. Các quốc gia phát triển thuộc nhóm OECD có tỷ trọng khu vực dịch vụ tài chính trong GDP là khá cao (15 - 25%). Riêng Trung Quốc, tỉ trọng dịch vụ tài chính đóng góp trong những năm gần đây là 20%. Đối với Việt Nam, các định chế tài chính buộc phải có quy mô tương xứng mới đáp ứng nhu cầu phát triển.
Thực trạng của các ngân hàng hiện nay đã được cải thiện hơn rất nhiều so với trước kia nếu xét về góc độ các mặt hoạt động, quy mô về vốn cũng như tốc độ tăng trưởng… Các NHTM cổ phần đô thị đã tiến hành việc tái cơ cấu từ năm 1997, đến nay đã khá ổn định và đang trong quá trình phát triển. Các NHTM nhà nước bắt đầu thực hiện tái cơ cấu từ sau khi có Quyết định 149/2001/QĐ-TTg ngày 5/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM nhà nước, đó là việc xử lý nợ xấu và tăng vốn. Đây có thể coi là cải cách lần một của hệ thống NHTM Việt Nam. Tiếp đó, còn phải hoàn thành việc xử lý nợ xấu, cơ cấu một bước về tổ chức của các NHTM nhà nước, trong đó đã có 2 ngân hàng đang thực hiện cổ phần hoá là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu Long. Các NHTM nhà nước khác cũng đang có những bước đi để thực hiện cổ phần hoá trong thời gian tới và có thể coi là cuộc cải cách lần hai của các NHTM Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện cổ phần hoá, các ngân hàng quốc doanh hàng đầu Việt Nam cùng với mục tiêu cụ thể về cổ phần hoá đều tuyên bố hướng tới trở thành TĐTC - NH có tầm cỡ. Mô hình TĐTC - NH rất phổ biến trên thế giới nhưng ở Việt Nam thì hoàn toàn mới mẻ. Về mặt hình thức, mô hình này đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm xây dựng ở TĐTC - Bảo hiểm Bảo Việt và trong các văn bản về cổ phần hoá ngân hàng cũng như những đồng ý về mặt nguyên tắc để hình thành các TĐTC - NH. Điều này càng khiến cho các ngân hàng thêm phấn khích trên lộ trình cổ phần hoá và hướng đến mô hình tập đoàn. Thực tế những năm gần đây, trong quá trình chuẩn bị cổ phần hoá, cùng với yếu tố lành mạnh hoá và nâng cao tiềm lực tài chính, các ngân hàng quốc doanh không ngừng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình sang nhiều lĩnh vực khác. Bước đầu, điều này đã làm xuất hiện những yếu tố cơ bản khi nhận dạng một TĐTC - NH, với quy mô vốn lớn, phạm vi hoạt động rộng, liên kết để mở rộng kinh doanh, đầu tư để tối đa hoá lợi nhuận.
Mô hình tập đoàn đa năng đang là đích nhắm tới của nhiều ngân hàng Việt Nam sau khi cổ phần hoá. Gần đây nhất, các ngân hàng cho thấy rõ tham vọng của mình khi cả Vietcombank và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đều chủ động đề xuất và được Chính phủ cho làm chủ đầu tư xây dựng 2 tuyến đường cao tốc quan trọng ở phía Bắc và phía Nam. Vietcombank đang trình Chính phủ đề án thành lập TĐTC - NH. Trong mô hình TĐTC mà lãnh đạo Vietcombank trình bày với Chính phủ, có việc triển khai việc thành lập thêm các đơn vị như: Công ty bảo hiểm nhân thọ; Công ty Quản lý quỹ đầu tư; Công ty tài chính và chuyển tiền tại Hoa Kỳ; Công ty quản lý vốn đầu tư bất động sản; Công ty thẻ; Công ty chuyển mạch thẻ quốc gia; Trung tâm dịch vụ tin học ngân hàng…
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến việc BIDV đang là người đóng vai trò tập hợp, liên kết với nhiều đối tác để đầu tư trong nhiều lĩnh vực về hạ tầng,
năng lượng, bất động sản... và cả lĩnh vực hoàn toàn mới như cho thuê máy bay. Thậm chí, BIDV còn đi đầu trong việc cung các ngân hàng phát triển đầu tư ra nước ngoài. Đây là những lĩnh vực hoàn toàn mới so với hoạt động của các ngân hàng này. Rõ ràng, các ngân hàng đang có nhiều tham vọng và bước đầu hiện thực hoá tham vọng của mình. Trước đó, các ngân hàng quốc doanh đã có những thành công trên các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và đầu tư tài chính. Đặc biệt, trong quá trình chuẩn bị cổ phần hoá, các ngân hàng không ngừng tăng cường năng lực cho các công ty con như một cách khẳng định vị thế của mình trên các lĩnh vực mà họ tham gia trong xu thế cạnh tranh ngày càng tăng. Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIC) ra đời trên cơ sở chiến lược thành lập TĐTC mang thương hiệu BIDV thông qua việc BIDV mua lại phần vốn góp của Tập đoàn Bảo hiểm và Tái bảo hiểm QBE (Australia) trong Liên doanh Bảo hiểm Việt - Úc.
Agribank cũng đang hoàn thiện các yếu tố cơ bản để phát triển theo hướng TĐTC đa ngành, đa sở hữu. Mục tiêu của Agribank là hình thành tập đoàn với công ty mẹ và ít nhất 11 công ty cổ phần hoạt động trên nhiều lĩnh vực như bảo hiểm, chứng khoán, cho thuê tài chính, dịch vụ thương mại, đầu tư tài chính, bất động sản và kinh doanh vàng bạc. Ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank) cũng đã được Chính phủ cho phép xây dựng đề án thí điểm hình thành TĐTC Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu khách quan do quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế. Do đó, các ngân hàng cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh nếu muốn tồn tại và phát triển trong tình hình hiện nay và tương lai.
II. Kinh nghiệm hoạt động của một số Tập đoàn tài chính trên thế giới
1. Tập đoàn Citigroup
1.1 Giới thiệu về tập đoàn Citigroup
Citigroup là một trong những TĐTC hàng đầu của Mỹ có trụ sở chính tại New York với công ty mẹ là Citibank. Ciupgroup ra đời từ quá trình sáp nhập của hai công ty lớn là Citicorp và Travelers Group vào ngày 07 tháng 04 năm 1998. Theo tạp chí Forbes Global 2000, Citigroup được đánh giá là một trong những công ty lớn nhất thế giới với tổng tài sản là 2,2 nghìn tỷ USD (07/2007). Hiện tập đoàn có khoảng 332.000 nhân viên trên thế giới, nắm giữ hơn 200 triệu tài khoản khách hàng tại hơn 100 quốc gia.
Citicorp bắt đầu từ sự ra đời của City Bank of New York (sau này là Citibank, N.A). Vào năm 1812, Đại tá Samuel Osgood, Uỷ viên đầu tiên của Kho bạc Hoa Kỳ đã sáng lập ra City Bank of New York chuyên phục vụ các thương gia thuộc các ngành nguyên liệu như bông, đường, kim loại và than đá. Trong thời gian nội chiến ở Mỹ, ngân hàng đã đổi tên thành The National Citi Bank of New York vào năm 1865. Những năm đầu của Thế kỷ 19, ngân hàng đã mở rộng chi nhánh đầu tiên ở nước ngoài (tại Luân Đôn năm 1902 và tại Buenos Aires năm 1914). Ngân hàng đã chuyển hướng mạnh sang hoạt động ngân hàng bán lẻ (phục vụ khách hàng cá nhân) và trở thành ngân hàng thương mại đầu tiên cho cá nhân người tiêu dùng vay tiền. Trong suốt những năm 1920 - 1940, các hoạt động quốc tế của ngân hàng phát triển rất nhanh (đạt tới 100 văn phòng đại diện và chi nhánh tại nước ngoài).
Năm 1955, ngân hàng sáp nhập với First National City Bank of New York để trở thành một tổ hợp lớn với tên gọi First National City Bank. Đến năm 1961, ngân hàng đưa ra sáng kiến sử dụng chứng chỉ tiền gửi, trả lãi suất cao hơn cho những khoản tiền gửi có kỳ hạn. Năm 1968, ngân hàng cải tổ để trở thành công ty mẹ (Holding Company) và hình thành một tập đoàn ngân hàng lấy tên là First National City Corp (đến năm 1974 đổi tên thành CitiCorp). Cuối năm 1968, Citibank đã thế chỗ Chase Manhatta trở thành ngân hàng lớn nhất ở New York với tài sản trị giá 19,4 tỷ USD.
Vào những năm 1970, Citibank trở thành nhà phát hành chính thẻ tín dụng Master và VISA và đã mua được Carte Blanche vào năm 1978, Diners Club vào năm 1981. Không chỉ dừng ở đó, Citibank liên tục hiện đại hoá sản phẩm của mình và năm 1977 đã trở thành ngân hàng đầu tiên giới thiệu sản phẩm Máy rút tiền tự động (ATMs) với quy mô hơn 500 chiếc trong nội thành New York. Từ thành công này, cuối năm 1980 Citibank đã vượt qua Bank of America để trở thành ngân hàng lớn nhất Mỹ. Trong những năm 80, Citibank đã mua được cả một tổ chức tài chính ở San Francisco, Chicago, Miami và Washington DC và đến năm 1998, sáp nhập với hãng Travelers Group để trở thành tập đoàn ngân hàng - tài chính hàng đầu thế giới.
Travelers Group vào thời kỳ sát nhập là một tập đoàn kinh doanh các lĩnh vực tài chính do ông Sandy Weill lãnh đạo. Ban đầu tập đoàn là một công ty tín dụng thương mại, một thành viên của Control Data Systems do ông Weill chịu trách nhiệm quản lý vào tháng 11/1986. Hai năm sau đó, Weill lại làm chủ công ty Primerica. Công ty này đã mua công ty bảo hiểm A L Williams cũng như công ty môi giới chứng khoán Smith Barney. Công ty mới có cái tên là Primerica.
Vào tháng 9/1992, công ty Travelers Insurance đã thực hiện liên minh chiến lược với Primerica, hình thành nên một thể thống nhất vào tháng 12/1993 và tập đoàn Travelers Inc. đã ra đời , chuyên kinh doanh bảo hiểm tài sản, tai nạn, tính mạng và trợ cấp. Tháng 4/1995, Travelers Inc. đổi tên thành Travelers Group.
Hiện nay, Citigroup được biết đến trên thế giới với các thương hiệu nổi tiếng sau:
Citibank: cung cấp các sản phẩm Ngân hàng phục vụ người tiêu dùng trên thế giới
Banamex là ngân hàng lớn nhất ở Mexico
Citimortgage: cung cấp dịch vụ thế chấp
CitiInsurance: kinh doanh bảo hiểm
CitiCapital: cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức
CitiFiancial: cung cấp dịch vụ cho khách hàng vay tiền
Thẻ tín dụng Diners Club, Creditcard Citi
1.2 Hoạt động kinh doanh của Citigroup trong những năm gần đây
Hoạt động kinh doanh của Citigroup bao gồm bốn bộ phận chính là: Global Consumer Group (Giao dịch toàn cầu) chuyên trách về hoạt động ngân hàng bán lẻ, Corporate and Investment Banking kinh doanh bán buôn, Global Wealth Management - nhánh kinh doanh ngân hàng đầu tư và quản lý tài sản và Citi Alternative Investment nhánh kinh doanh quản lý tài sản chuyên môn hoá trong mua bán nợ, bất động sản và hedge funds…
Với đà phát triển của mình, trong những năm gần đây, Citigroup liên tục thực hiện các sáng kiến của mình cũng như tích cực sáp nhập hay mua lại các công ty tài chính, đặc biệt là các ngân hàng trên thế giới để mở rộng thị trường, nâng cao vị thế của mình trước sự cạnh tranh của nhiều đối thủ khác và củng cố cho hoạt động franchising. Citigroup hi vọng sẽ tiếp tục đạt mức tăng trưởng trong cho vay, nhận tiền gửi và hoạt động kinh doanh khác để tăng các điểm phân phối, mở rộng các sản phẩm cung cấp ra thị trường. Citigroup không ngừng phân bổ nguồn vốn của mình cho các thị trường.
Bảng 5: Kết quả kinh doanh của Citigroup từ năm 2002 - 2006
Đơn vị: Triệu đô la
2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | |
Tài sản | 1.097.596 | 1.264.032 | 1.484.101 | 1.494.037 | 1.884.318 |
Doanh thu | 66.246 | 71.594 | 79.635 | 83.642 | 89.615 |
Lợi nhuận | 15.276 | 17.853 | 17.046 | 24.589 | 21.538 |
Lợi nhuận/cổ phiếu (đô la) | 0,70 | 1,10 | 1,60 | 1,76 | 1,96 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tập Đoàn Tài Chính Có Phạm Vi Hoạt Động Rộng Lớn
- Mô Hình Tổ Chức Quản Lý Của Tập Đoàn Ở Một Số Nước
- Xu Hướng Hình Thành Tập Đoàn Tài Chính Ở Việt Nam Hiện Nay
- Vài Nét Về Hoạt Động Kinh Doanh Của Citibank
- Prudential – “Luôn Luôn Lắng Nghe, Luôn Luôn Thấu Hiểu”
- Bài Học Kinh Nghiệm Cho Việt Nam Từ Nghiên Cứu Các Tập Đoàn Tài Chính Trên Thế Giới
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
(Nguồn: USA Today)
Năm 2006, Citigroup đạt mức lợi nhuận là 21,538 tỷ đô la với doanh thu là 1884,318 tỷ đô la. Mặc dù lợi nhuận giảm 12% so với năm 2005 nhưng lợi nhuận trên 1 cổ phiếu tiếp tục tăng 11%. Doanh thu năm 2006 tăng 7% so với năm 2005, đạt 89,6 tỷ đô la. Các lĩnh vực kinh doanh của Citigroup đều tăng kỷ lục 14% trong năm 2006, trong đó International Consumer (Giao dịch toàn cầu) tăng 8%, CIB tăng 22% và lĩnh vực ngân hàng đầu tư và quản lý tài sản tăng 31%.
Doanh thu tăng là do khối lượng cho vay tăng, bao gồm cho các doanh nghiệp vay tăng 29% và cho cá nhân vay tăng 13%. Tài sản trong dịch vụ giao dịch đang nắm giữ 21% và tài sản của khách hàng trong lĩnh vực đầu tư và quản lý tăng 10%.
Trong suốt năm 2006, Citigroup tiếp tục thực hiện các sáng kiến chiến lược, trong đó mở mức kỷ lục 1.165 chi nhánh mới của Citibank và Consumer Finance (862 chi nhánh ở trên thế giới và 303 chi nhánh ở Mỹ).
Số lượng khách hàng tăng mạnh. Trung bình khoản cho vay tăng 14%, nhận tiền gửi tăng 16% và các tài sản mang lại lợi nhuận tăng 16% so với cùng kỳ năm. Doanh thu từ hoạt động giao dịch chính tăng 37% và tài sản của khách hàng đang được quản lý tăng 15%.
Global Consumer
Corporate &
Investment Banking
Global Wealth M anagement
Alternative Investments
6%
7%
32%
55%
Biểu đồ: Lợi nhuận của từng lĩnh vực kinh doanh