Xây dựng cơ sở hạ tầng các cụm công nghiệp ở Hà Nội - 5


doanh nghiệp nhỏ và vừa, các làng nghề ở nông thôn phát triển nhanh chóng đã gây ra ô nhiễm môi trường, cản trở sự phát triển và gặp phải “nút thắt” là CSHT. Sự ra đời của các CCN là giải pháp phù hợp để giải quyết các cản trở đó nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn.

Cụm công nghiệp là hình thức mới của tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ. Nó hình thành và phát triển sau khi có Nghị định số 90/2001/NĐ - CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và sau Quyết định số 132/2000/QĐ - TTg ngày 24/11/2000 về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn. Qua kết quả điều tra của Dự án phát triển CCNLN VIE01/025 năm 2004

-2005 của Viện nghiên cứu quản lý Trung ương đã chỉ rõ: đến 12/2004 số CCNLN đã xây dựng của Hà Nội (cũ) là: 3 Cụm với diện tích 96,1 ha, tỉnh Hà Tây (cũ): 21 Cụm với diện tích 591 ha, tỉnh Bắc Ninh: 15 Cụm với diện tích 335,7 ha; tỉnh Nam Định 15 Cụm với diện tích 202,69 ha.

Trên thực tế, các CCN được hình thành và phát triển từ hai con đường chủ yếu sau:

Thứ nhất: Hình thành tự phát, đi trước quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh/thành phố, xuất phát từ nhu cầu bức xúc của các hộ gia đình trong các làng cần diện tích mặt bằng lớn hơn để phát triển sản xuất, các hộ tự xây dựng, sau đó phát triển thành CCN. Để đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất, một số hộ sản xuất kinh doanh trong các làng không đủ mặt bằng sản xuất đã tự đổi ruộng nông nghiệp cho nhau dồn ruộng đổi thửa để có diện tích đất lớn hơn và tập trung sản xuất công nghiệp vào một khu riêng biệt, chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang công nghiệp. Trước nhu cầu bức thiết của các hộ sản xuất về mặt bằng sản xuất chính quyền địa phương đã cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang công nghiệp, hình thành những CCN. Ngoài ra còn có một cách khác là ở một số làng, có những


cơ sở sản xuất đi tiên phong trong việc xin phép cho thuê mặt bằng sản xuất từ đất nông nghiệp để đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất như cơ sở Minh Phương ở Hà Tây. Trước nhu cầu bức xúc từ thực tế phát triển sản xuất mặc dù chưa có cơ sở pháp lý những chính quyền địa phương đã đồng ý cho các cơ sở sản xuất này sử dụng đất nông nghiệp chuyển đổi sang sản xuất công nghiệp từ rất sớm. Từ sự thành công của Minh Phương dần dần nhiều cơ sở sản xuất khác cũng xin thuê mặt bằng tại khu vực đó và cuối cùng hình thành CCN.

Thứ hai : UBND Thành phố/tỉnh hoặc huyện quy hoạch xây dựng mới các CCN. Thành phố, huyện đã giành đất để xây dựng CSHT CCN, sau đó chia lô đất trong CCN và đấu thầu hoặc giao cho các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh đầu tư vào CCN.

Việc hình thành các CCN trên các địa bàn lãnh thổ phải đáp ứng các điều kiện và tiêu chí sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 240 trang tài liệu này.

- Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và tình hình phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của từng địa phương. Việc hình thành, phát triển các CCN phải mang tính bền vững;

- Có trong quy hoạch phát triển CCN đã được phê duyệt;

Xây dựng cơ sở hạ tầng các cụm công nghiệp ở Hà Nội - 5

- Có quỹ đất dự trữ để phát triển và có điều kiện liên kết thành CCN;

- Có khả năng đạt tỷ lệ lấp đầy không thấp hơn 30% trong vòng một năm sau khi thành lập;

- Có chủ đầu tư xây dựng hạ tầng CCN;

- Đảm bảo các yêu cầu về an ninh, quốc phòng;

- Việc mở rộng các CCN hiện có chỉ được thực hiện khi: i) Có quỹ đất phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của huyện, đáp ứng nhu cầu mở rộng CCN; ii) Nhu cầu thuê đất công nghiệp trong CCN vượt quá diện tích đất công nghiệp hiện có của CCN; iii) Đã đạt tỷ lệ lấp đầy ít nhất 60%; iv) Đã có công trình xử lý nước thải tập trung đối với CCN có diện tích từ 15 ha trở lên. [47]


1.1.3. Vai trò của Cụm công nghiệp

Từ thực tế hoạt động của nhiều CCN và từ quy hoạch phát triển các CCN có thể nhận thấy CCN có vai trò chủ yếu sau:

(1) Phát triển CCN đóng góp tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương. Nhờ có mặt bằng sản xuất lớn hơn và có kết cấu hạ tầng như đường giao thông, hệ thống cung cấp điện, viễn thông, trạm xử lý nước thải… tốt hơn khi chưa vào Cụm, nên CCN đã làm tăng quy mô sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất của nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhiều làng nghề. Trước đây, sản xuất ở các làng nghề được diễn ra tại các hộ gia đình, vừa sản xuất, vừa sinh hoạt, do đó chật hẹp về diện tích, cản trở phát triển sản xuất và ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng đến đời sống người dân. Thêm vào đó, để tiêu thụ sản phẩm với khối lượng lớn sẽ rất khó khăn do đường giao thông trong các làng nghề còn nhỏ hẹp, quanh co (xe ô tô khó có thể vào tận từng gia đình được). Hiện nay thành lập CCN vừa tạo điều kiện cho mở rộng và tăng quy mô sản xuất vừa tách khu vực sản xuất ra khỏi khu vực dân cư. Các cơ sở tham gia hoạt động trong CCN sẽ có điều kiện hoạt động tốt hơn do có diện tích mặt bằng rộng hơn trước nên khả năng tự giới thiệu sản phẩm lớn hơn, từ đó dẫn đến việc thuận lợi hơn khi ký kết các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.

(2) CCN là sự tập trung về mặt địa lý các cơ sở sản xuất – kinh doanh, các tổ chức có liên quan với nhau về sản xuất, về sử dụng CSHT và hạn chế ô nhiễm môi trường. Vì vậy có thể coi CCN là đầu mối thực hiện liên kết nội bộ ngành công nghiệp, dịch vụ và liên kết công nghiệp với nông thôn ở vùng, địa phương. Do đó, CCN là hạt nhân thúc đẩy phát triển vùng và kinh tế – xã hội địa phương.

(3) Giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Nhờ vào CCN nên đã có điều kiện để áp dụng các biện pháp giảm ô nhiễm môi trường như: giành đất để trồng cây xanh trong Cụm, xây dựng cơ sở xử lý chất thải tập trung và áp dụng các


biện pháp khác để giảm ô nhiễm môi trường. CCN Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội) với diện tích 63,138 ha đã giành 8.277 m2 (chiếm 13,10% diện tích của Cụm) để trồng cây xanh và đã có trạm xử lý nước thải công suất 2.400m3/ngày đêm; CCN Hapro đã giành 3.656m2 (chiếm 26,17% diện tích của Cụm) để trồng cây xanh và khu vui chơi giải trí ...

(4) Tạo điều kiện thúc đẩy tiến bộ khoa học - công nghệ trong sản xuất - kinh doanh của các làng nghề. Hình thành các CCN là chuyển từ sản xuất phân tán, manh mún sang sản xuất tập trung do đó đã thúc đẩy và tạo điều kiện đổi mới công nghệ. Nhờ có CCN nên có thể áp dụng các dây chuyền công nghệ có công suất lớn hơn và hiện đại hơn. Ở CCN Nguyên Khê (Đông Anh – Hà Nội) nhờ có mặt bằng rộng hơn (mỗi DN vừa và nhỏ ở CCN này có diện tích ít nhất 1 ha để xây dựng nhà xưởng) và có CSHT tốt hơn nên 12 DNN&V thuộc các ngành khác nhau (may, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, chế biến thức ăn gia súc, lắp ráp…) đều đã áp dụng tiến bộ khoa học – công nghệ tiên tiến, áp dụng dây chuyền sản xuất hiện đại và nâng cao trình độ trang bị công nghệ của sản xuất.

(5) Giải quyết được nhiều việc làm cho lao động ở nông thôn. Ở các CCN nhờ mở rộng quy mô sản xuất và kết hợp giữa sản xuất tập trung và phân tán nên đã cho phép thu hút nhiều lao động, giải quyết việc làm, thúc đẩy phân công lao động ở nông thôn. Nhiều cơ sở SXKD trong các CCN ngoài việc giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ còn thu hút lao động từ các địa phương khác tới. Việc phát triển CCN góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng, tăng thu nhập cho người lao động, đẩy nhanh quá trình thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Theo báo cáo của Sở Kế hoạch đầu tư Hà Nội, tổng giá trị sản xuất công nghiệp tại các khu, Cụm, điểm công nghiệp năm 2009 là 75.000 tỷ đồng, tổng giá trị nộp ngân sách là 1.500 tỷ đồng và thu hút khoảng 200.000 lao động.[60]


(6) Các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các CCN có cơ hội và điều kiện để tăng năng suất, giảm chi phí thông qua việc tận dụng lợi thế bố trí gần nhau về mặt địa lý.

Hiện nay, một số CCN và tiến tới đa số CCN được thành lập và phát triển trên cơ sở chuỗi giá trị sản xuất và cung ứng sản phẩm. Do vậy CCN đã thúc đẩy hợp tác, liên kết và làm tăng khả năng cạnh tranh của các cơ sở sản xuất - kinh doanh trong Cụm. Theo Michael Porter, các CCN có tiềm năng tác động lên cạnh tranh theo 3 cách: i) Bằng cách tăng hiệu quả của các doanh nghiệp trong Cụm; ii) Bằng cách điều tiết đổi mới trong khu vực; iii) Bằng cách khuyến khích các doanh nghiệp trong khu vực.

Michael Porter đã coi trình độ phát triển Cụm ngành là một trong các yếu tố nền tảng của năng lực cạnh tranh (Sơ đồ 1.1).

Năng lực cạnh tranh Vi mô


Mức độ tinh thông trong chiến lược và hoạt động công ty


Trình độ phát triển cụm ngành


Chất lượng môi trường kinh doanh quốc gia

Năng lực cạnh tranh vĩ mô




Hạ tầng x= hội và thể chế chính trị


Chất lượng chính sách vĩ mô


Các lợi thế tự nhiên



Tài nguyên thiên nhiên

Vị trí

địa lý


Quy mô



Sơ đồ 1.1. Các yếu tố nền tảng của năng lực cạnh tranh

Nguồn: [2]


Như vậy, có thể coi CCN là điểm nhấn, là khâu đột phá trong phát triển công nghiệp nông thôn hiện nay. Do vậy, có thể nói việc hình thành và phát triển CCN là cần thiết và góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương.

Tuy nhiên, cũng không nên quá tuyệt đối hóa những tích cực trong phát triển CCN, bên cạnh những mặt tích cực cũng nên xem xét đến những tiêu cực đã xảy ra trong phát triển của CCN như: Ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và cuộc sống của nông dân ngoại thành; Ảnh hưởng xấu tới môi trường; Sự phát triển tràn lan CCN những không hiệu quả làm lãng phí quỹ đất…

1.2. QUAN NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ TIÊU CHÍ PHẢN ÁNH TÌNH HÌNH XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG CỤM CÔNG NGHIỆP

1.2.1. Quan niệm và vai trò cơ sở hạ tầng Cụm công nghiệp

Từ tiếng Anh Infrastructure cấu tạo trực tiếp bởi hai từ: i) Infra ở dưới, phần bên dưới hay còn gọi là hạ tầng và ii) structrure có nghĩa là cấu trúc, kết cấu) được dịch là kết cấu hạ tầng hoặc CSHT. Có tác giả định nghĩa: “Kết cấu hạ tầng hay cơ sở hạ tầng (Infrastructure) là khái niệm chung để chỉ đường bộ, đường sắt, bệnh viện, trường học, hệ thống thuỷ lợi, cấp nước v.v…được tích luỹ từ các khoản đầu tư của Nhà nước Trung ương và địa phương. Khái niệm này cũng bao gồm cả những tài sản vô hình như vốn, nhân lực, tức các khoản đầu tư vào việc đào tạo lực lượng lao động. Kết cấu hạ tầng đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao và nâng cao mức sống chung của một nước”. Theo quan niệm này, kết cấu hạ tầng được nhìn nhận với tư cách là các ngành, các lĩnh vực của nền Kinh tế quốc dân, không phải chỉ có các điều kiện vật chất – kỹ thuật (các hệ thống công trình) được tạo lập để đảm bảo phát triển kinh tế – xã hội mà còn có các yếu tố và điều kiện nhân lực, tài chính, quản lý và đào tạo nhằm tạo lập và các điều kiện


vật chất – kỹ thuật và vận hành chúng để làm nền tảng cho các hoạt động kinh tế – xã hội.

Từ điển tiếng Việt định nghĩa “Cơ sở hạ tầng là toàn bộ các hệ thống công trình như đường bộ, đường cấp điện, cấp nước, thoát nước, chất thải… trong mối quan hệ với các công trình, nhà cửa được xây dựng ở khu vực đó. Theo cách hiểu của tôi “kết cấu hạ tầng" là các công trình chuyên ngành phục vụ sản xuất và đời sống xã hội còn "cơ sở hạ tầng" cũng là các công trình, nhưng được xây dựng ở một khu vực nào đó mà ta nói đến, phạm vi được đề cập trong "cơ sở hạ tầng" hẹp hơn "kết cấu hạ tầng".

Như vậy, có thể hiểu kết cấu hạ tầng/ cơ sở hạ tầng là một bộ phận đặc thù của cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền Kinh tế quốc dân có chức năng, nhiệm vụ cơ bản là đảm bảo những điều kiện chung cần thiết cho quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng được diễn ra bình thường, liên tục. Kết cấu hạ tầng /cơ sở hạ tầng cũng được định nghĩa là tổng thể các cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc đóng vai trò nền tảng cho các hoạt động kinh tế - xã hội được diễn ra một cách bình thường. Toàn bộ kết cấu hạ tầng/ cơ sở hạ tầng có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau dựa trên các tiêu chí khác nhau. Cụ thể là:

- Nếu căn cứ theo lĩnh vực kinh tế – xã hội, thì kết cấu hạ tầng có thể được phân chia thành: kết cấu hạ tầng phục vụ kinh tế, kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động xã hội và kết cấu hạ tầng phục vụ an ninh – quốc phòng. Tuy nhiên, trên thực tế, ít có loại kết cấu hạ tầng nào hoàn toàn chỉ phục vụ kinh tế mà không phục vụ hoạt động xã hội và ngược lại.

- Nếu căn cứ theo sự phân ngành của nền Kinh tế quốc dân, thì kết cấu hạ tầng có thể được phân chia thành: kết cấu hạ tầng trong công nghiệp, trong nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu chính - viễn thông, xây dựng, hoạt động tài chính, ngân hàng, y tế, giáo dục, văn hoá - xã hội…


- Nếu căn cứ theo khu vực dân cư, vùng lãnh thổ, thì kết cấu hạ tầng có thể được phân chia thành: kết cấu hạ tầng đô thị: kết cấu hạ tầng nông thôn; kết cấu hạ tầng kinh tế biển, kết cấu hạ tầng đồng bằng, trung du, miền núi, vùng trọng điểm phát triển, các Thành phố lớn…[35]

Kết cấu hạ tầng trong mỗi lĩnh vực, mỗi ngành, mỗi khu vực bao gồm những công trình đặc trưng cho hoạt động của lĩnh vực, ngành, khu vực và những công trình liên ngành đảm bảo cho hoạt động đồng bộ của toàn hệ thống. Trong nhiều công trình nghiên cứu về kết cấu hạ tầng/cơ sở hạ tầng các tác giả thường phân chia kết cấu hạ tầng/ cơ sở hạ tầng thành hai loại cơ bản, gồm: hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội.

(1) Hạ tầng kinh tế bao gồm các công trình hạ tầng kỹ thuật như: năng lượng (điện, than, dầu khí) phục vụ sản xuất và đời sống, các công trình giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông, đường hàng không, đường ống), bưu chính – viễn thông, các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp… Kết cấu hạ tầng/cơ sở hạ tầng kinh tế là bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh, ổn định, bền vững và là động lực thúc đẩy phát triển nhanh hơn, tạo điều kiện cải thiện cuộc sống dân cư.

(2) Hạ tầng xã hội gồm nhà ở, các cơ sở khoa học, trường học, bệnh viện, các công trình văn hoá, thể thao… và các trang thiết bị đồng bộ với chúng. Đây là điều kiện thiết yếu để phục vụ, nâng cao mức sống của cộng đồng dân cư, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Như vậy, kết cấu hạ tầng xã hội là tập hợp một số ngành có tính chất dịch vụ xã hội; sản phẩm do chúng tạo ra thể hiện dưới hình thức dịch vụ và thường mang tính chất công cộng, liên hệ với sự phát triển con người cả về thể chất lẫn tinh thần.

Xem tất cả 240 trang.

Ngày đăng: 11/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí