Vấn Đề Ủy Thác Tư Pháp Về Xác Minh Điều Kiện Tha

thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.”

4.2.1.4. Vấn đề ủy thác tư pháp về xác minh điều kiện THA

Xác minh điều kiện THA là một vấn đề hết sức đặc thù, đối với việc xác minh này, người có thẩm quyền xác minh phải khẳng định được một cách rò ràng người phải THA có điều kiện về tài sản, thu nhập không (đối với các vụ việc thi hành nghĩa vụ về trả tiền) hoặc là người phải THA có khả năng thi hành không (đối với các vụ việc thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc như nhận người lao động trở lại làm việc, buộc giao vật, giao giấy tờ…). Vì vậy, việc tương trợ tư pháp về xác minh với nước ngoài cũng cần được quy định cụ thể thì mới có thể tiến hành một cách thuận lợi. Khác với công việc tống đạt văn bản, giấy tờ, cơ quan có thẩm quyền trả lời yêu cầu ủy thác tư pháp đối với việc tống đạt văn bản giấy tờ chỉ cần xác định được địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người cần tống đạt, thực hiện việc tống đạt theo quy định và lưu lại chứng cứ chứng minh đã tống đạt thành công. Việc xác minh tài sản sẽ gặp phải những trở ngại khác như quy định về quản lý tài sản hay là xử lý tài sản đó. Chẳng hạn, sau khi xác định người phải THA có tài sản ở nước ngoài thì cơ chế xử lý đối với tài sản đó được thực hiện như thế nào? Quốc gia nào có thẩm quyền xử lý tài sản đó? Quốc gia đang nắm giữ tài sản, thu nhập của người phải THA hay quốc gia đang thi hành vụ việc? Tất cả các vấn đề trên nếu muốn xử lý thì phải được quy định rò ràng. Đây là lý do giải thích tại sao từ trước đến nay, liên quan đến vấn đề THA có yếu tố nước ngoài, có chăng, cơ quan THADS chỉ dừng lại ở yêu cầu tương trợ tư pháp trong việc xác định địa chỉ, tống đạt văn bản, giấy tờ, mà chưa bao giờ đặt ra vấn đề xác minh điều kiện THA. Tuy nhiên, đối với trường hợp thi hành án theo yêu cầu, nếu có căn cứ cho rằng người phải thi hành án cư trú và có tài sản ở nước ngoài, cơ quan THADS có thể hướng dẫn cho người được THA thực hiện thủ tục đề nghị công nhận và cho thi hành bản án, quyết định ở quốc gia nơi người phải thi hành án cư trú và có tài sản đó. Còn đối với trường hợp chủ động thi hành án, đặc biệt đối với những vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng, người được THA là nhà nước, cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thì việc yêu cầu các chủ thể này đề nghị công nhận và cho thi hành bản án, quyết định là không hợp lý. So sánh với các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết với một số quốc gia, có thể thấy, quốc gia bên ký kết có

thể chuyển giao tiền, tài sản do phạm tội mà có cho quốc gia yêu cầu trong quy định tương trợ tư pháp về vấn đề hình sự. Quy định này hoàn toàn có thể áp dụng đối với trường hợp thi hành án đối với bản án hình sự mà người phải THA cũng chuyển do tiền do phạm tội mà có ra nước ngoài.

Vì vậy, NCS cho rằng, trong thời gian tới, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xem xét để quy định một nội dung riêng về THADS trong văn bản pháp luật về tương trợ tư pháp, đồng thời khi ký các hiệp định về tương trợ tư pháp với các quốc gia trên thế giới cũng cần minh định rò vấn đề THADS để tạo thuận lợi cho công tác xác minh điều kiện THA của người phải THA ở nước ngoài nói riêng và công tác thi hành bản án, quyết định nói chung của các cơ quan THADS.

4.2.1.5. Vấn đề tăng trách nhiệm của người phải thi hành án trong việc kê khai tài sản

Theo quy định tại Điều 44 Luật THADS thì người phải THA phải có trách nhiệm kê khai tài sản của mình khi CHV tiến hành xác minh điều kiện THA. Tuy nhiên, như tác giả đã phân tích ở Chương 3 Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về xác minh điều kiện THADS thì quy định này không được thực hiện trên thực tế với lý do chưa có chế tài đủ mạnh để xử phạt hành vi vi phạm vì không kê khai hoặc kê khai không đúng thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện THA của người phải THA.

Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới thì trách nhiệm kê khai thông tin tài sản của người phải THA được rất nhiều quốc gia quy định trong pháp luật. Nếu vi phạm trách nhiệm kê khai thông tin tài sản như không kê khai hoặc kê khai không đúng sự thật thì người phải THA có thể sẽ phải gánh chịu các hình phạt và đỉnh điểm là hình phạt tước đi quyền tự do trong khoảng thời gian tối đa là 2 năm.

NCS cho rằng, để quy định kê khai thông tin có thể áp dụng một cách hiệu quả trên thực tế, pháp luật cần sửa đổi quy định về mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không kê khai hoặc phát hiện việc kê khai không trung thực của người phải thi hành theo hướng tăng mức xử phạt. Đồng thời, nếu người phải THA đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn cố tình vi phạm thì cần phải quy định về trách nhiệm hình sự đối với hành vi này. Cụ thể, NCS đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến trách nhiệm kê khai thông tin của người phải THA như sau:

- Thứ nhất, bãi bỏ quy định tại điểm c khoản 2 Điều 64 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP vì việc đưa hành vi không kê khai hoặc kê khai không trung thực

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

vào nhóm hành vi tại khoản 2 như không cung cấp thông tin, giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý; không thông báo cho cơ quan THADS khi có sự thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú… sẽ không làm nổi bật được tính chất quan trọng của hành vi này đối với hoạt động tổ chức THADS.

- Thứ hai, bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 64 Nghị định số 82/2020/NĐ- CP như sau: “Không kê khai hoặc kê khai không đầy đủ, không chính xác tài sản, thu nhập, điều kiện THA khi người có thẩm quyền THA yêu cầu”. Việc đưa hành vi này vào nhóm quy định tại khoản 5 với khung hình phạt từ 10.000.000 đồng đến

Xác minh điều kiện thi hành án dân sự theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành - 19

20.000.000 đồng là phù hợp để nâng cao tính răn đe đối với hành vi không kê khai của người phải THA.

- Thứ ba, bổ sung quy định trong Bộ luật hình sự về hành vi không kê khai hoặc kê khai không đầy đủ, không chính xác của người phải THA như sau: “Người nào có điều kiện THA, đã được người có thẩm quyền THA yêu cầu mà cố tình không kê khai hoặc kê khai không đầy đủ, không chính xác tài sản, thu nhập, điều kiện THA mặc dù đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 1 năm”.

4.2.1.6. Bổ sung quy định cụ thể về việc huy động lực lượng bảo vệ của CHV trong giai đoạn xác minh

Trong một số trường hợp, xác minh hiện trạng tài sản là một nội dung quan trọng để có thể tổ chức THA như trường hợp kê biên, xử lý tài sản là đất đai, nhà ở; trường hợp thi hành nghĩa vụ trả vật, giấy tờ, chuyển quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, như đã phân tích ở chương thực trạng, nhiều trường hợp CHV không thể tiến hành xác minh để tiến hành cưỡng chế THA do sự chống đối của người phải THA dẫn đến việc THA bị đình trệ trong khi quy định pháp luật không rò ràng về việc huy động lực lượng bảo vệ. Do đó, pháp luật cần có quy định cho phép CHV được huy động lực lượng bảo vệ ngay từ khi tiến hành xác minh điều kiện THA và các quy định về chi phí THA trong trường hợp huy động lực lượng bảo vệ xác minh điều kiện THA.

4.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xác minh điều kiện THA dân sự ở Việt Nam

4.2.2.1. Hoàn thiện pháp luật về mô hình tổ chức bộ máy THA dân sự

Xác minh là một công đoạn của quá trình tổ chức THA. CHV chỉ có thể xác minh hiệu quả khi CHV hoạt động trong một môi trường mà ở đó CHV có đủ thời gian, phương tiện, công cụ và các điều kiện khác để hoạt động tác nghiệp. Trong bối

cảnh tình trạng tồn đọng án kéo dài do tình trạng quá tải vì thiếu nhân lực, kinh phí, phương tiện hoạt động ở các cơ quan THA công như hiện nay thì đã đến lúc các cơ quan quản lý nhà nước về THADS cần tính đến việc xây dựng một mô hình tổ chức bộ máy THADS phù hợp với đặc điểm tình hình của công tác THADS trong thời gian tới.

Như NCS đã phân tích ở mục 3.2 của luận án, tình trạng quá tải là có thật, trong khi đó, việc nghiên cứu để tăng biên chế cho cơ quan THADS là một vấn đề không đơn giản, bởi lẽ như số liệu thống kê đã được thống kê chúng ta thấy rằng số lượng vụ việc THA hàng năm đều tăng, nhưng số lượng tăng không đều, có năm nhiều, có năm ít, và với các cơ quan THA địa phương cũng tương tự như vậy, có địa phương năm nay số lượng án ít, nhưng năm khác số lượng án lại nhiều. Trước sự bất ổn định về số lượng án như vậy, có nhiều địa phương đã áp dụng hình thức biệt phái cán bộ từ Chi cục THADS này đến Chi cục THADS khác trên cùng một tỉnh, thậm chí còn có hình thức biệt phái CHV từ tỉnh này sang tỉnh khác để tăng cường CHV, cán bộ THA cho các cơ quan THA có lượng án tăng đột biến. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp mang tính chất tình thế của các cơ quan THA và chưa đưa đến hiệu quả thực tế với lý do hoạt động THADS là hoạt động có tính chất đặc thù, một vụ việc THA được giải quyết với nhiều công đoạn khác nhau và kéo dài trong một thời gian không thống nhất, trong khi cán bộ được biệt phái chỉ công tác tại nơi được biệt phái trong một khoảng thời gian nhất định, thường là 06 tháng đến 01 năm. Có rất nhiều cán bộ được biệt phái trong khoảng thời gian là 06 tháng, chưa kịp giải quyết xong một hoặc một số vụ việc THA thì lại phải bàn giao lại cho cán bộ khác do đã hết thời gian biệt phái. Ngoài ra, công tác THA còn đặc thù ở chỗ để giải quyết việc THA, CHV, cán bộ THA cần phải có mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức hữu quan ở địa phương. Nhiều cán bộ biệt phái vừa mới kịp làm quen với các cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan tại địa phương nơi được biệt phái thì đã hết thời gian biệt phái. Vì lẽ đó, giải pháp này, thậm chí, có lúc, có nơi còn gây nên những khó khăn, vướng mắc cho chính cơ quan THA nơi nhận cán bộ biệt phái do phải giải quyết hậu quả của những vụ việc THA mà cán bộ được biệt phái đang thi hành dang dở.

Với mô hình tổ chức cơ quan THA như hiện nay thì Ngân sách Nhà nước phải gánh trên vai một chi phí “khổng lồ” cho hệ thống các cơ quan THA thì việc xem xét để tăng biên chế cho cơ quan THA sẽ càng chất thêm gánh nặng cho Ngân sách nhà nước. Vì vậy, chỉ khi việc tăng biên chế là tất yếu, không thể có giải pháp thay thế thì mới nghĩ đến giải pháp này.

Nghiên cứu mô hình tổ chức bộ máy THA của một số nước trên thế giới, NCS thấy rằng, hiện vẫn có sự tồn tại của mô hình THA hỗn hợp, tức là cùng song song tồn tại cả hệ thống THA nhà nước và THA tư nhân, quốc gia tiêu biểu cho mô hình này là Bulgaria.

Ở Việt Nam, với sự ra đời của Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội về vấn đề xã hội hóa công tác THADS và Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về thực hiện chế định TPL thì hiện nay Việt Nam đang hướng tới áp dụng hình thức tổ chức THA bán công. Theo đó, Việt Nam vẫn giữ hệ thống cơ quan THA trực thuộc cơ quan hành chính, đồng thời triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá một số loại hình dịch vụ THADS như tống đạt văn bản, giấy tờ, xác minh tài sản điều kiện THADS, trực tiếp tổ chức THADS… và được thu phí dịch vụ đối với người được THA.

Tuy nhiên, để mô hình này thực sự phát huy hiệu quả, cần phải hoàn thiện về mặt thể chế đối với định chế TPL, trong đó, cần đảm bảo các yêu cầu sau: (i) Văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của TPL phải là văn bản có giá trị pháp lý cao, cụ thể là đạo luật của Quốc hội; (ii) Phải đảm bảo quyền lực thực sự của TPL khi thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn của mình như được quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền phối hợp khi thực hiện hoạt động tống đạt văn bản, giấy tờ; xác minh điều kiện THADS, trực tiếp tổ chức THADS, nếu các cơ quan này không thực hiện yêu cầu thì được quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý trách nhiệm hành chính, dân sự, hình sự theo quy định.

Với tính chất là một định chế vừa mới hết thời gian thí điểm, khó có thể đòi hỏi một hệ thống pháp luật hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của TPL. Bên cạnh đó, khi xã hội chưa đặt niềm tin vào việc trao quyền sử dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án cho một chủ thể có tính chất tư nhân thì trước mắt, có thể tăng cường quyền lực cho TPL trong xác minh điều kiện THADS. Theo đó, các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của TPL cần quy định rò về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu không thực hiện yêu cầu của TPL trong đề nghị cung cấp thông tin.

4.2.2.2. Nâng cao địa vị pháp lý cho Chấp hành viên

(i) Để nâng cao địa vị pháp lý cho CHV, việc làm đầu tiên mà cơ quan có thẩm quyền quản lý lĩnh vực THA phải làm chính là xây dựng khung pháp lý nâng cao quyền hạn của CHV.

Như NCS đã phân tích ở mục 3.2 của luận án, một trong những vướng mắc, bất cập của pháp luật xác minh điều kiện THADS là tính độc lập của chấp hành viên

trong việc tổ chức thi hành án nói chung và xác minh điều kiện thi hành án nói riêng còn chưa được bảo đảm.

Tham khảo kinh nghiệm xác minh tài sản của một số nước trên thế giới, NCS thấy rằng, ở một số nước, pháp luật cho phép CHV được quyền khám xét, truy tìm tài sản bằng rất nhiều cách thức khác nhau giúp cho việc xác định một cách chính xác các tài sản thuộc sở hữu, sử dụng của người phải THA.

Trong báo cáo của Đoàn công tác tại Liên bang Nga về kết quả dự Hội nghị quốc tế lần thứ 5 về THADS gửi Bộ trưởng Bộ Tư pháp ngày 30/9/2014 đã tổng kết về quy định xác minh điều kiện THA ở một số nước trên thế giới như sau:

Về quyền/trách nhiệm xác minh, Luật THA của các nước đều có quy định về nguyên tắc xác minh tài sản của người phải THA. Ví dụ: Đại diện Azechbaizan cho biết CHV có quyền thông qua quyết định của Toà án để khám xét bất cứ chỗ nào được coi là của người phải THA, có quyền thu giữ tài sản của họ mà không cần quyết định của toà án. Nếu thanh toán không đủ, thì mọi tài sản của họ đều có thể bị kê biên. Việc sửa đổi luật là theo hướng tốt hơn cho người được THA.

Đại diện Bungaria cho biết pháp luật Bungaria quy định các cơ quan nhà nước và cá nhân có trách nhiệm cung cấp thông tin cho THA. Thông tin về điều kiện THA có thể là từ hệ thống đăng ký tài sản, đăng ký doanh nghiệp và pháp nhân, đăng ký thuế, kê khai thống kê dân số, đăng ký quyền tác giả, cấp lý lịch tư pháp, hệ thống bảo hiểm an sinh xã hội... Với hình ảnh lục soát tìm tiền che dấu dưới đệm giường ngủ, đại diện của Bungaria cho rằng mục tiêu của THA là phải tìm kiếm được tài sản của người phải THA. Ở Bungaria cũng đã có hệ thống Trung tâm theo dòi thông tin về người phải THA.

Bàn về ranh giới giữa quyền cá nhân và việc truy tìm tài sản của người phải THA, với hình ảnh con chuột đội mũ bảo hiểm với cái bẫy chuột có miếng mồi là pho mát, đại diện Cộng hòa Bungaria cho biết TPL không được sử dụng thông tin có được từ việc truy tìm người phải THA và tài sản của họ vào việc khác. Báo cáo của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp Liên bang Nga cũng cho thấy pháp luật sửa đổi chỉ rò việc truy tìm tài sản trong nhà (vào nhà) nhất thiết cần lệnh của Tòa án, chỉ rò lúc nào thì TPL hoặc người khác được thực hiện việc khám xét để truy tìm tài sản của người phải THA và phải phân biệt rò ranh giới giữa quyền của Thừa phát lại trong việc truy tìm tài sản của người phải THA và quy định của Hiến pháp về quyền riêng tư, quyền cá nhân.

Theo điều 3 khoản 48 Luật THADS của Cộng hòa Izrael cần phải truy tìm tài sản của người phải THA theo cách phù hợp với tình hình thực tế. Sau khi nhận được yêu cầu thì người thụ lý cần kiểm tra xem các dữ liệu về người phải THA đã có trong hệ thống hay chưa. Nếu như không có thì cần truy tìm, ví dụ như truy tìm số điện thoại và địa chỉ; nếu như người phải THA không có tài sản thì việc kết thúc các thủ tục THA là có lợi cho các bên. Trong phần lớn các trường hợp bình thường, thì việc truy tìm người phải THA là không khó, ví dụ thông qua địa chỉ đã đăng ký hoặc theo cung cấp của người được THA. Nếu người được THA chưa rò về điều kiện THA hoặc chưa được THA đầy đủ thì tiến hành thủ tục truy tìm. Các nước đều khẳng định vai trò, trách nhiệm của cảnh sát theo Luật cảnh sát trong việc hỗ trợ THA [11].

Vì vậy, để bảo đảm cho CHV thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình một cách hiệu quả thì pháp luật cần phải nâng cao vị thế của CHV bằng cách tạo cho CHV một sự độc lập nhất định khi tổ chức THADS. Sự độc lập này sẽ được thể hiện trong chính các quy định pháp luật cho phép CHV có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện các công việc thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của họ; nếu không thực hiện yêu cầu của CHV, các chủ thể này sẽ phải chịu các trách nhiệm pháp lý được quy định rò ràng trong luật.

(ii) Khi đã có được khung pháp lý cần thiết thì cần phải tăng cường nội lực cho chính CHV

Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ CHV quyết định chất lượng công tác THA nói chung, công tác xác minh điều kiện THA nói riêng. Đây chính là nội lực của CHV. Pháp luật THADS dù có hoàn thiện, hoàn mỹ đến đâu thì sẽ không phát huy tác dụng nếu trình độ, phẩm chất của CHV không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Việc đào tạo, bồi dưỡng đúng hướng sẽ giúp nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ. Vì vậy, cần chú trọng quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng CHV. Cần tăng cường giáo dục phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ CHV, cán bộ, công chức các cơ quan THA. Nâng cao chất lượng, đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cán bộ cho các cơ quan THADS, đặc biệt là những cán bộ là nguồn bổ nhiệm CHV, để đảm bảo cho đội ngũ cán bộ THA có kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức thực tiễn, phẩm chất, đạo đức trong sạch và dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN. Theo hướng đó, phải chú trọng các việc sau đây:

- Xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác THA, đào tạo nghề, tiêu chuẩn hoá đội ngũ CHV, trong đó xác định rò cả về tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và tiêu chuẩn về tác phong, đạo đức, lối sống. Trên cơ sở đó để đặt ra kế hoạch, chương trình, nội dung đào tạo phù hợp.

- Có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CHV, cán bộ THA nhằm đảm bảo cho họ có đủ các tiêu chuẩn về đạo đức, trình độ chuyên môn, đặc biệt là trình độ về kỹ năng nghề nghiệp. Đổi mới về tổ chức, đánh giá cán bộ, bố trí cán bộ theo hướng năng lực cán bộ được đánh giá chủ yếu trên kết quả công việc và việc bố trí cán bộ phải phù hợp với năng lực cán bộ.

- Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức tài vào làm việc tại cơ quan THA, mở rộng nguồn để bổ nhiệm chức danh CHV, không bó hẹp trong phạm vi cán bộ cơ quan THA như hiện nay mà còn có thể là các luật gia, luật sư.

Ngoài ra, việc đào tạo, bồi dưỡng CHV còn phải quán triệt những quan điểm sau đây:

Một là, đào tạo nguồn cán bộ một cách toàn diện, đồng thời nâng cao dần chất lượng đội ngũ CHV;

Hai là, tăng cường đào tạo lại cho đội ngũ CHV đã được bổ nhiệm;

Ba là, tăng cường chất lượng đào tạo, kết hợp lý luận với thực tiễn có tính chất chuyên sâu của CHV;

Bốn là, đào tạo nguồn đội ngũ CHV để thay dần dần những người có trình độ chuyên môn yếu hoặc “do lịch sử để lại”;

Năm là, từng bước đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ CHV.

Như NCS đã trình bày ở Chương 3 - Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về xác minh điều kiện THADS, để xác minh tài sản của doanh nghiệp một cách hiệu quả, ngoài việc CHV phải nắm vững quy định pháp luật về xác minh điều kiện THA; nắm vững trình tự, thủ tục xác minh, có mối quan hệ tốt với các cơ quan, tổ chức có liên quan, CHV còn phải nắm được các quy định khác như Luật doanh nghiệp, chế độ pháp lý về vốn và tài sản của doanh nghiệp… Để làm tốt công tác này, không có con đường nào nhanh và hiệu quả hơn con đường đào tạo.

(iii) Để tương xứng với sự thay đổi về địa vị pháp lý của CHV, cũng cần phải xem xét tăng cường chế độ trách nhiệm, nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật của CHV.

Xem tất cả 179 trang.

Ngày đăng: 15/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí