hóa và trí thông minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số IQ” [5, tr.34].
Việc tồn tại cả tám trí thông minh với mức độ cao thấp khác nhau sẽ ảnh hưởng đến thiên hướng tiếp thu năng lực trí tuệ nào hiệu quả hoặc kém hiệu quả. Thêm nữa, trí thông minh không phải là cái bất biến. Thông qua đào tạo có thể tạo điều kiện phát triển hoặc làm thui chột năng lực trí tuệ của HS. Trong khi đó, giáo dục nhà trường hiện nay lại chưa thực sự chú trọng đến DH tiếp cận trí thông minh của HS. GV cũng chưa thực sự đầu tư lựa chọn các PPDH phù hợp với thiên hướng tiếp thu của HS. Đó thực sự là thực trạng đáng lo ngại trong giáo dục Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
Sử dụng PPDH hiệu quả sẽ góp phần quyết định sự thành công của mục tiêu dạy học. Vì thế, có thể xem việc kế thừa những thành tựu trong nghiên cứu của Howard Gardner về trí thông minh đa dạng như một gợi ý để lựa chọn PPDH phù hợp trong tất cả các môn học, trong đó có LS.
Đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam nhằm hướng đến chất lượng thực sự của nền giáo dục. Đó vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục, trong đó có giáo dục PT.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự thay đổi trong nhận thức xã hội, việc DH hướng đến phát triển năng lực và trí tuệ của từng cá nhân đang được xem trọng thay vì DH đại trà. Chính bởi thế, việc DH phân hóa cũng đang là chủ trương được các nhà giáo dục và dư luận quan tâm rất nhiều. “Bản chất của DH phân hóa là tạo ra những khác biệt nhất định trong nội dung và phương thức hoạt động dựa vào nhóm năng lực, hứng thú hoặc nhu cầu của người học và mục tiêu giáo dục của xã hội” [7]. Tính phân hoá thể hiện ở sự phân biệt dựa theo các đối tượng khác nhau, áp dụng cách thức tổ chức, vận dụng nội dung, PP và hình thức, hoạt động khác nhau,... sao cho phù hợp nhất với từng đối tượng, nhằm đạt hiệu quả cao.
Như vậy, trong ý tưởng thực hiện của DH phân hóa và DH dựa trên sự vận dụng lý thuyết đa thông minh xuất hiện những điểm tương đồng. Đó là việc DH hướng đến tính đặc thù, cá biệt của mỗi HS, từ đó GV đề xuất và thực hiện các PPDH phù hợp.
Trong chương trình PT, LS là môn học có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành tri thức và nhân cách HS. Học LS để hiểu về cội nguồn dân tộc, để trân trọng những gì mình đang có, biết ơn tổ tiên và sống có trách nhiệm. Học LS là cách nhanh nhất để mỗi chúng ta được sống trong những phút giây hào hùng mà bi tráng của dân tộc đã bao lần thử lửa trong chiến tranh, để sống một cách nhân văn và ý nghĩa nhất.
Tuy nhiên, trên thực tế, LS đang bị HS “ít quan tâm”. Tình trạng HS không thích học LS đang trở thành căn bệnh lan rộng khắp xã hội. Điều này thật không phù hợp với vị trí và vai trò của môn LS trong việc hình thành kiến thức, kĩ năng và phẩm chất công dân.
Như vậy, xuất phát từ khả năng vận dụng lý thuyết đa thông minh của Howard Gardner trong DH phổ thông, chủ trương đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục của Đảng và vị trí, vai trò của bộ môn LS, tôi lựa chọn đề tài “Vận dụng lý thuyết đa thông minh trong dạy học Lịch sử lớp 10 trường trung học phổ thông” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể bạn quan tâm!
- Vận dụng lý thuyết đa thông minh trong dạy học Lịch sử lớp 10 trường trung học phổ thông - 1
- Một Số Quan Điểm Về Trí Thông Minh Của Con Người
- Một Số Yêu Cầu Khi Vận Dụng Lý Thuyết Đa Thông Minh Trong Môn Lịch Sử Ở Trường Thpt
- Thực Trạng Vận Dụng Lý Thuyết Đa Thông Minh Trong Dạy Học Lịch Sử Ở Trường Phổ Thông Liên Cấp Olympia
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
Trên thế giới, nhiều nhà tâm lý học, nhà giáo dục đã thử ứng dụng lý thuyết này vào quá trình nghiên cứu. Trong số đó, Thomas Armstrong đã ứng dụng thành công một phần thuyết đa thông minh vào việc giảng dạy và giáo dục. Ông đã công bố một số cuốn sách nổi tiếng như: 7 loại hình trí thông minh, Bạn thông minh hơn bạn nghĩ, Đa trí tuệ trong lớp học,… Các cuốn sách này chủ yếu viết về vấn đề giáo dục và hướng dẫn cha mẹ giáo dục con cái, giúp GV DH theo các PP nhằm phát huy năng lực trí tuệ nổi trội của con em mình.
Trên cơ sở tìm hiểu thuyết đa thông minh của Howard Gardner, Thomas Armstrong đã có quá trình nghiên cứu nghiêm túc để đưa ra những tác phẩm mang tính kế thừa, được các nhà giáo dục và dư luận xã hội quan tâm. Một trong số đó là cuốn “7 loại hình thông minh”. Cuốn sách được được Mạnh Hải, Thu Hiền dịch và do nhà xuất bản Lao động – xã hội phát hành. Ngoài phần mở đầu, cuốn sách bố cục thành 15 nội dung nhỏ. Bên cạnh việc chỉ ra 7 loại hình trí thông minh (trừ trí thông minh tự nhiên), Thomas Armstrong có đưa thêm một số nội dung thú vị khác như: “Đánh thức những tiềm năng nở muộn” hay “Củng cố mối liên kết lỏng lẻo”, “Liệu còn tồn tại những loại hình thông minh khác”…
Ngay chương I với tên gọi “Thuyết trí thông minh đa dạng”, Thomas Armstrong đã đưa ra những tình huống gần gũi trong cuộc sống hàng ngày để dẫn dắt người đọc có được cảm nhận đầu tiên về trí thông minh. Tình huống đặt ra khi bạn bị một đàn voi ma mút uy hiếp hay xe hơi của bạn bị hỏng trên đường cao tốc. Trong cả hai trường hợp, bạn đều cần sự giúp đỡ. Với cuộc sống muôn hình vạn trạng, trí thông minh giải quyết những nhu cầu khác nhau thì cần có những năng lực khác nhau. Và như vậy, trí thông minh phụ thuộc vào hoàn cảnh, nhiệm vụ và những yêu cầu mà cuộc sống đặt ra cho chúng ta.
Thomas Armstrong cũng chỉ ra rằng: các bài kiểm tra IQ mới chỉ đánh giá được một thứ có thể tạm gọi là “năng khiếu đi học”, trong khi trí thông minh thật sự phải được hiểu trong phạm vi rất rộng lớn với nhiều loại kĩ năng khác nhau [19]. Ông cũng đưa ra một cách hệ thống tên gọi, các khái niệm mà Howard Gardner đã khái quát và những bằng chứng làm cơ sở cho thuyết trí thông minh đa dạng. Một là, mỗi trí thông minh đều có khả năng biểu tượng hóa. Hai là, mỗi trí thông minh đều có LS phát triển riêng của nó. Ba là, mỗi loại trí thông minh đều sẽ bị tổn thương và biến mất khi có các tác động xâm phạm và gây hại đến những vùng đặc trưng riêng biệt của nó trong bộ não người. Và cuối cùng, mỗi loại trí thông minh có những nền tảng giá trị văn
hóa riêng của nó. Đương nhiên, Thomas Amstrong cũng không quên đưa ra những biểu hiện để người đọc tự đánh giá các loại trí thông minh của bản thân.
Bên cạnh các tác phẩm trên là một số bài báo, bài viết của các chuyên gia có uy tín trong nước, bàn về việc vận dụng thuyết đa thông minh trong DH. Bài nghiên cứu của PGS.TS Trần Khánh Đức với nhan đề “Lý thuyết đa thông minh và đổi mới phương pháp dạy học ở bậc đại học” trình bày những mối quan hệ trực tiếp giữa lý thuyết đa thông minh của của nhà tâm lý học Mỹ Howard Gardner (1983) với yêu cầu đổi mới PPDH ở bậc đại học theo hướng phát huy tính chủ động và sáng tạo ở người học, dạy PP, dạy cách học. Để phát triển các năng lực (dạng thức thông minh) ở người học, PPDH ở bậc đại học cần có đổi mới căn bản từ quan niệm, quy trình, kỹ thuật, cách thức thực hiện… trên cơ sở kết hợp đa PP, đa thông tin, đa giác quan, đa phương tiện, đa hoạt động.
Có đôi nét khác biệt với PGS.TS Trần Khánh Đức, bài viết của TS Trần Đình Châu với nhan đề “Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học ở trường phổ thông”, đăng trên Tạp chí Giáo dục số 316 (kì 2-8/2013) tiếp cận thuyết đa trí tuệ để vận dụng trong chương trình PT với nhiều thông tin khái quát song ngắn gọn hơn. Bài viết đi từ mục tiêu của giáo dục PT đến tình trạng bất cập trong DH hiện nay, giới thiệu về lý thuyết đa thông minh, về cách đánh giá các dạng năng lực trí tuệ của HS và đề xuất việc vận dụng thuyết đa thông minh trong DH bằng dẫn chứng sinh động thông quan bài dạy “Bảo vệ bầu không khí trong sạch”.
Điểm giống nhau của cả hai bài viết này là đều chỉ ra chủ trương, đường lối đổi mới giáo dục của Đảng rồi từ đó trình bày nội dung cơ bản của thuyết đa thông minh và đề xuất việc vận dụng trong DH. PGS.TS Trần Khánh Đức đề xuất việc vận dụng ở góc độ người học (SV) và người dạy (giảng viên) còn TS Trần Đình Đức đề xuất việc đánh giá các dạng năng lực trí tuệ ở HS và vận dụng bằng việc lựa chọn các PPDH phù hợp.
Trong cuốn “Phương pháp ôn tập Lịch sử ở trường trung học phổ thông – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Thanh Tú có đề cập đến: Cơ sở, vai trò, ý nghĩa, yêu cầu cơ bản, hình thức, biện pháp của việc tổ chức, hướng dẫn ôn tập trong DHLS ở trường THPT. Một điều rất đáng ghi nhận là mặc dù không đề cập cụ thể đến việc vận dụng lý thuyết đa thông minh vào hoạt động ôn tập song TS. Hoàng Thanh Tú đã chỉ ra rằng: “Hiệu quả học tập của mỗi người không chỉ phụ thuộc vào phương pháp dạy mà còn chịu ảnh hưởng của chính phong cách học của họ” [16, tr.216].
Theo đó, “Phong cách học là cách thức mà người học thường sử dụng để tiếp thu, ghi nhớ kiến thức theo thói quen tư duy và dưới tác động của môi trường học tập” [16, tr. 217]. Mỗi cá nhân có một phong cách học riêng, quy định cách họ tiếp nhận tri thức và nhận biết về thế giới xung quanh. Như vậy, trong tác phẩm này, TS. Hoàng Thanh Tú đã đề cập đến đa kiểu học, hướng đến DH phân hóa đối tượng nhằm đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động theo nhu cầu, sở thích và khả năng của mỗi HS nhằm nâng cao hiệu quả DH.
Là một học thuyết có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhiều trường PT đã đề xuất việc ứng dụng lý thuyết đa thông minh vào xây dựng chương trình đào tạo của mình. Trong đó, không thể không kể đến: Trường PT liên cấp Olympia, Trường mầm non cao cấp Bibi Home, Trung tâm bé thông minh hay trung tâm Gene Code (Phân tích vân tay). Bên cạnh đó, thuyết đa thông minh còn được đăng tải trên một số trang web hay diễn đàn có uy tín như: Trường THPT Chuyên Hà Nội Amsterdam hay webtretho.
Trên các diễn đàn đó, các bài viết tập trung vào nội dung chủ yếu là giới thiệu về thuyết đa thông minh: Sự ra đời gắn liền với quá trình nghiên cứu khoa học của Howard Gardner, cơ sở khoa học, những nội dung chủ yếu và rất nhiều những gợi ý khác để ứng dụng trong việc phát triển tư duy, làm đa dạng các loại hình trí thông minh của HS. Như vậy, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã trở thành nhân tố tích cực để thúc đẩy sự hiểu biết của toàn xã hội đối với vô vàn tri thức của nhân loại. Trong đó có thuyết đa thông minh của Howard Gardner.
Từ việc tổng quan trên, có thể nhận thấy, lý thuyết đa thông minh của Howard Gardner đã được nghiên cứu và đề cập ít nhiều trong các cuốn sách, bài nghiên cứu và hoạt động của một số cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, các tài liệu nói trên mới chủ yếu đề cập nhiều đến quan điểm mới của Howard Gardner về trí thông minh, mô tả các dạng trí thông minh và đề xuất việc vận dụng trong DHPT và đại học một cách sơ lược. Việc tiếp cận của nhà trường, đội ngũ GV và các em HS về lý thuyết đa thông minh chưa thật rộng rãi nên chưa thực sự phát huy được tính ứng dụng của lý thuyết này trong DH. Trên thực tế, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống thuyết đa thông minh để vận dụng vào DHPT, cụ thể là môn LS.
Những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước chính là nguồn tài liệu quý báu, là căn cứ và cũng là gợi ý có giá trị lý luận sâu sắc để tôi tiếp cận, tìm hiểu và nghiên cứu việc vận dụng thuyết đa thông minh trong DHLS ở trường PT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Lý thuyết đa thông minh và việc vận dụng thuyết đa thông minh trong DH LS ở trường PT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu (Vận dụng vào trường PT liên cấp Olympia)
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu việc vận dụng lý thuyết đa thông minh vào phần LS lớp 10 THPT, đặc biệt chú ý các chủ đề về LS văn hóa.
- Về hình thức tổ chức DH: Tập trung vào bài học nội khóa.
- Về địa bàn khảo sát, thực nghiệm: Trường PT liên cấp Olympia, Trung Văn, Từ Liêm, Hà Nội.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
- Trên cơ sở tìm hiểu và khẳng định vai trò, ý nghĩa của thuyết đa thông minh của Howard Gardner, đề tài chỉ ra quy trình và cách thức vận dụng vào
DHLS ở trường PT, góp phần phát triển năng lực, trí thông minh của HS và nâng cao chất lượng DHLS.
4.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng Lý thuyết đa thông minh vào DH môn LS ở trường PT.
- Khảo sát, đánh giá năng lực trí thông minh của học sinh lớp 10 trường PT liên cấp Olympia.
- Nghiên cứu nội dung phần LS lớp 10 (đặc biệt chú ý nội dung văn hóa) và đề xuất quy trình xây dựng kế hoạch bài dạy trên cơ sở vận dụng Lý thuyết đa thông minh.
- Thử nghiệm và đánh giá tính hiệu quả, khả thi của việc vận dụng Lý thuyết đa thông minh trong DHLS.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận:
- Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta về LS, giáo dục.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết: Sưu tầm, đọc, nghiên cứu, phân tích và tổng hợp sách báo, internet, tạp chí, luận án, luận văn đề cập các vấn đề liên quan đến thuyết đa thông minh của Howard Gardner và việc vận dụng thuyết đa thông minh vào DH nói chung (DHLS nói riêng).
- Nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, dự giờ, trao đổi với GV, HS, điều tra xã hội học, thử nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra, đối chứng kết quả nghiên cứu của luận văn.
- Toán học thống kê.
6. Giả thuyết khoa học
- Nếu GV vận dụng thuyết đa thông minh vào DHLS thì sẽ đạt được mục tiêu DH, giúp HS hứng thú, phát huy được tối đa năng lực và các trí thông
minh của các em, góp phần nâng cao chất lượng DH môn LS ở trường THPT hiện nay.
7. Đóng góp của đề tài
Thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra, luận văn góp phần:
- Khẳng định vai trò và tính khả thi của thuyết đa thông minh trong việc vận dụng DH nói chung, DHLS nói riêng.
- Đánh giá được thực trạng DHLS nói chung, thực trạng vận dụng lý thuyết đa thông minh trong DH nói riêng.
- Đề xuất quy trình vận dụng thuyết đa thông minh trong DHLS ở trường PT.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Làm phong phú thêm lí luận PPDHLS nói chung và vấn đề vận dụng Lý thuyết đa thông minh trong DHLS ở trường THPT nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm, Đại học Giáo dục; GV môn LS và tác giả trong quá trình vận dụng DHLS ở trường THPT.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng lý thuyết đa thông minh trong dạy học Lịch sử ở trường trung học phổ thông.
Chương 2: Vận dụng lý thuyết đa thông minh trong dạy học Lịch sử lớp 10 ở trường trung học phổ thông liên cấp Olympia.