Một Số Nhận Thức Chung Về Phát Triển Con Người


Thứ ba, phát triển con người về tâm lực

Coi tâm lực là vấn đề có ý nghĩa quan trọng để phát triển con người toàn diện, Hồ Chủ tịch cho rằng tâm có sáng thì trí mới bền, vì thế Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã rất chú trọng đến phát triển con người Việt Nam về mặt tâm lực. Trong đó, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã coi đạo đức là nền tảng của con người, giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Bởi con người trước hết phải có tâm trong sáng, có cái đức cao đẹp; cái tâm, cái đức đó phải được thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hàng ngày giữa con người với con người: người thân, đồng chí, đồng nghiệp, nhân dân và với đất nước.

Với quan điểm cho rằng đạo đức là nền tảng của con người, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý giáo dục đạo đức cho mọi người: từ người công nhân, nông dân đến trí thức, văn nghệ sĩ; từ đồng bào các dân tộc đến đồng bào các tôn giáo, các nhà tu hành….Nhưng trong đó, đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta, cán bộ, đảng viên phải có đạo đức mới có thể lãnh đạo nhân dân, mới phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Trước khi đi xa, trong Di chúc, Hồ Chí Minh còn căn dặn, nhắc nhở chúng ta rằng: “Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” [102, tr.498].

Để có đạo đức, thì mỗi người phải tự rèn luyện và rèn luyện suốt đời. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [99, tr.293]. Có thể nói, Hồ Chí Minh không chỉ giáo dục đạo đức cho mọi người, hơn thế nữa chính bản thân Người đã luôn thực hành đạo đức, và Người đã trở thành một tấm gương đạo đức cao đẹp mà mọi thế hệ phải noi theo. Vì thế, ngày 02 tháng 02 năm 2007, tại lễ kỷ niệm 77 thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thay


mặt Đảng, Chính phủ, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã chính thức phát động cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Trên thực tế, phong trào này đã có sức lan tỏa sâu rộng và có ý nghĩa rất lớn đối với việc giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Cùng với việc giáo dục đạo đức, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn luôn coi trọng việc giáo dục phẩm chất chính trị, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho con người Việt Nam, đặc biệt là cho tầng lớp thanh niên. Theo Hồ Chí Minh, nếu con người không có định hướng chính trị đúng đắn, không được trang bị lý tưởng cách mạng tiến bộ thì “như người nhắm mắt mà đi” [98, tr.221]; “như đi ban đêm không có đèn, không có gậy, dễ vấp té” [92, tr.120]; hoặc như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam, “nhất định không thể hăng hái đấu tranh cho nhân dân, cho cách mạng” [97, tr.328]. Với quan điểm đó, Người khẳng định lý tưởng cách mạng của người Việt Nam ngày nay là “phấn đấu cho Tổ quốc ta hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội toàn thắng trên đất nước ta và trên toàn thế giới” [101, tr.372]. Để lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thực sự thấm sâu vào mỗi con người Việt Nam, quan điểm của Đảng ta và trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì phải tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác – Lênin, phải nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong các tầng lớp nhân dân.

Cùng với việc giáo dục đạo đức, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, trong quá trình phát triển tâm lực cho con người Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta còn chú trọng phát triển và nâng cao văn hóa thẩm mỹ cho nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta, con người không những có nhu cầu tồn tại, mà còn có nhu cầu phát triển, vươn tới cái mới, cái hay, cái đẹp, cái cao cả; con người ai cũng có ước vọng vươn tới “chân, thiện, mỹ”. Đó là bản chất nhân văn luôn tiềm ẩn trong con người. Xã hội càng phát triển, càng văn minh thì nhu cầu vươn tới cái đẹp càng cao. Quá trình vươn tới cái hay, cái đẹp, cái cao cả cũng là quá trình con người loại bỏ dần những gì xấu xa, ích kỷ trong bản thân để “làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi” [102, tr.558].


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.

Đảng ta và Hồ Chí Minh còn cho rằng, để phát triển và nâng cao năng lực thẩm mỹ cho nhân dân, chúng ta cần xây dựng định hướng văn hóa thẩm mỹ đúng đắn. Định hướng này gắn liền với lý tưởng chính trị, đạo đức của xã hội và con người Việt Nam, mang tính cách mạng và bản chất “Dân tộc, khoa học, đại chúng” [96, tr.173]; trong đó, theo Hồ Chi Minh, “nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc ngày càng phát triển mạnh mẽ” [101, tr.224]. Chỉ trên cơ sở định hướng văn hóa thẩm mỹ đúng đắn đó, chúng ta mới làm cho con người Việt Nam nhận thức đúng đắn về cái đẹp, cái tốt, cái đúng, cái cao cả. Để có định hướng này, chúng ta cần phải kết hợp giữa việc thừa kế và phát huy những giá trị truyển thống tốt đẹp của dân tộc với tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại. Theo Hồ Chí Minh, biện pháp tốt nhất để giáo dục văn hóa thẩm mỹ đối với quần chúng nhân dân là phải ca ngợi, đề cao, cổ vũ những tập thể, những điển hình tiên tiến trong phong trào quần chúng, những anh hùng trong chiến đấu, trong sản xuất, bởi “đó là những bông hoa rất đẹp trong vườn hoa dân tộc của chúng ta” [102, tr.548]. Người yêu cầu phải “miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn những việc ấy bằng văn, bằng thơ, bằng vẽ và bằng nghệ thuật khác, v.v.” [100, tr.561]; “phải ca tụng chân thật những con người mới, việc mới chẳng những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau” [100, tr.646]. Người cho rằng, “lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ đảng viên để giáo dục lẫn nhau còn là một phương pháp lấy quần chúng giáo dục quần chúng rất sinh động và có sức thuyết phục lớn. Đó cũng là cách thực hành đường lối quần chúng trong công tác giáo dục” [102, tr.551].

Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh của Đảng ta đã xác định:

Vấn đề phát triển con người toàn diện Việt Nam hiện nay - 8

Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình [36, tr.114].


Chủ trương này đã trở thành quan điểm chỉ đạo xuyên suốt và tiếp tục được bổ sung, phát triển trong các văn kiện của Đảng ta trong những giai đoạn tiếp theo, đồng thời được cụ thể hóa thành những chính sách và thực thi sâu rộng trong xã hội. Đặc biệt, trong xu thế quốc tế hóa và kinh tế thị trường phát triển ngày càng mạnh mẽ, văn hóa trở thành yếu tố rất quan trọng cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Vai trò của văn hóa thẩm mỹ không chỉ đem lại sức sống “tâm thần” to lớn đối với mỗi con người Việt Nam, nó còn trở thành “vũ khí” quan trọng đem lại những thắng lợi to lớn trong lao động và chiến đấu của dân tộc Việt Nam. Chúng ta còn nhớ, Hồ Chí Minh do rất coi trọng vai trò của văn hóa thẩm mỹ, nên trong thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội hoạ năm 1951, Người còn chỉ rõ:“Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận; Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Kế thừa và phát huy tư tưởng đó, lần này - tại Đại hội Đảng XI, Đảng ta đã xác định văn hóa phải trở thành nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, vì thế phải “làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng vững chắc…xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức và thẩm mỹ ngày càng cao” [39, tr.76].

Như vậy, có thể nói trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam; và phát triển con người toàn diện là sự phát triển con người cả về thể lực, trí lực và tâm lực. Ba mặt đó luôn quan hệ mật thiết trong phát triển con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện.

2.3. MỘT SỐ NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

TOÀN DIỆN

Thứ nhất, con người được xem là trung tâm của sự phát triển

Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, không phải lúc nào, ở đâu, người ta cũng xem con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó có thể nhận thấy trong học thuyết của một số nhà tư tưởng theo chủ nghĩa duy tâm


(Platon, Heghen…); chúng ta cũng nhận thấy điều này trong quan điểm của một số tôn giáo (Blamon, Cơ đốc giáo…): Con người chỉ được xem như tiểu vũ trụ, là thực thể bé nhỏ do đấng tối cao sinh thành. Và chúng ta còn thấy nhiều quan điểm cho rằng, con người chỉ là “con người chính trị”, vì thế sự tồn tại người mang tính pháp nhân phụ thuộc vào nhà nước; hay ở những thập niên 70 - 80 của thế kỉ XX, Taylor còn coi con người chỉ là động vật kinh tế. Những quan điểm đó không những là khiếm khuyết, mà còn trở nên sai lầm trước những thành quả của tư tưởng khoa học hiện đại và thực tiễn thời đại.

Với bản chất cách mạng và khoa học, chủ nghĩa Mác đã khẳng định con người chính là sản phẩm của lịch sử, nhưng con người cũng chính là “kẻ” sáng tạo ra lịch sử và lịch sử chẳng qua chỉ là lịch sử của chính con người, và cũng bằng chính “hoạt động lịch sử” chân chính của mình mà con người được giải phóng và phát triển toàn diện. Khái quát quan điểm đó của C.Mác, chúng ta dễ dàng nhận thấy, C.Mác đã xem con người chính là trung tâm của sự phát triển. Quan điểm đó của C.Mác là một quan điểm hết sức khoa học về con người, vì thế nó luôn mang tính thời đại. Điều này được chứng minh bằng việc cuối thế kỷ XX, cộng đồng nhân loại tiến bộ đã cho ra đời tổ chức chuyên nghiên cứu về phát triển con người mang tên Chương trình phát triển liên hợp quốc (United Nations Development Programme, viết tắt là UNDP). UNDP được coi là tổ chức có công trong việc đề cao con người, thừa nhận con người là nguồn lực vô tận, là nhân tố quyết định, là mục tiêu của sự phát triển. Triết lý tổng quát của tổ chức này xác định: con người giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Có những lúc, đông đảo cộng đồng nhân loại đã cho rằng, tăng trưởng kinh tế đồng nghĩa với việc phát triển kinh tế - xã hội. Và khi ấy, kinh tế được đặc biệt chú trọng thì con người vô tình hoặc cố ý bị bỏ quên; con người trở thành công cụ, phương tiện của sự phát triển. Vì thế, triết lý đúng đắn của UNDP về con người đã thỏa mãn được thái độ của nhiều cộng đồng, nhiều giới chức xã hội, của mọi nền văn hóa, mọi tôn giáo, mọi chính kiến…Dù khác nhau đến mấy


cũng đều thừa nhận giá trị con người và đều phấn đấu vì hạnh phúc của con người. Từ triết lý đúng đắn này, UNDP đã đưa ra nhiệm vụ nghiên cứu và hoạch định chiến lược phát triển con người. Thành quả đầu tiên của UNDP là Báo cáo phát triển con người thế giới (HDR) năm 1990, và sau đó được xuất bản thường niên. Hiện nay, UNDP có mạng lưới phát triển toàn cầu, có mặt tại hơn 166 quốc gia với nhiệm vụ chính là tuyên truyền, vận động cho sự đổi mới và là cầu nối giữa các nước với tri thức, kinh nghiệm và nguồn lực để giúp người dân xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hiện có hơn 130 quốc gia trên thế giới đã xây dựng báo cáo phát triển con người, với trên 600 báo cáo đã được xuất bản.

Theo quan điểm của UNDP, phát triển con người được cụ thể hóa thành các chỉ số phát triển người, trong đó chỉ số phản ánh có tính tích hợp cao nhất và được đông đảo cộng đồng thế giới công nhận là chỉ số HDI (Human Development Index), đó là sự kết hợp của ba chỉ số: thu nhập, giáo dục và tuổi thọ. Hiện nay, tổ chức này còn bổ sung nhiều chỉ số mới để phản ánh sự phát triển con người, như chỉ số nghèo đói đa chiều, chỉ số bình đẳng giới, chỉ số hạnh phúc….Và UNDP cũng đã cho rằng: Phát triển con người là quá trình mở rộng các sự lựa chọn của con người nhằm đạt được những khả năng nhất định và tận dụng những khả năng đó. Một số lựa chọn có tính quyết định nhất là có một cuộc sống lành mạnh và lâu dài, là hiểu biết và có mức sống khá. Ở đây, phát triển con người đồng nghĩa với việc mở rộng và tăng cường sự lựa chọn cho con người, để tăng cường các năng lực và hoạt động của con người nhằm đưa tới hạnh phúc cho cuộc sống con người.

Việt Nam cũng là thành viên rất tích cực của tổ chức UNDP, bắt đầu từ năm 2001, nước ta đã có báo cáo thường niên về phát triển con người Việt Nam. Việc xem con người là trung tâm của sự phát triển không chỉ là xu hướng đúng đắn của thời đại, mà còn hết sức phù hợp với truyền thống của dân tộc và con người Việt Nam. Điều đó đã được thể hiện rõ trong quan điểm coi phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam của Đảng ta,


của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều học giả khác ở nước ta. Vì thế, vấn đề đặt ra cho chúng ta hiện nay là phải nhận thức sâu sắc về vị trí trung tâm của sự phát triển chính là con người, để trên cơ sở đó chúng ta có được những quan niệm và hành động đúng đắn vì mục tiêu phát triển con người Việt Nam.

Thứ hai, về phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay

Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta khẳng định là nền tảng tư tưởng của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, học thuyết Mác và Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện cũng chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các quan điểm, quan niệm của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam về vấn đề phát triển con người toàn diện. Cùng với đó là việc quán triệt quan điểm của Đảng ta về phát triển con người Việt Nam, cũng như việc kế thừa những tư tưởng khoa học, tiến bộ về con người, nhìn chung các nhà nghiên cứu ở nước ta khá thống nhất trong quan niệm về vấn đề này. Tuy nhiên, không vì thế mà thiếu đi sự phong phú, đa dạng trong quan niệm của các nhà nghiên cứu khi định nghĩa, luận giải về phát triển con người toàn diện. Điều đó thật dễ hiểu, bởi lẽ nội hàm của khái niệm này không phải bất biến. Tùy từng mục đích nghiên cứu, hay tùy từng giai đoạn lịch sử khác nhau mà các nhà khoa học đã sử dụng cách biểu đạt khác nhau cho phù hợp. Có các học giả gọi là Con người Việt Nam mới - khái niệm này được sử dụng khá rộng rãi, tiêu biểu là trong cuốn Về vấn đề xây dựng con người mới, do Phạm Như Cương chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978. Một số nhà khoa học, như Phạm Minh Hạc, Vũ Thiện Vương, Hồ Sỹ Quý, Nguyễn Thế Kiệt, Đặng Hữu Toàn,…lại thường sử dụng khái niệm phát triển con người Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa…Mặc dù sử dụng các cách biểu đạt khác nhau về khái niệm khác này, song về cơ bản, các học giả, các nhà nghiên cứu đều thể hiện trong nội hàm khái niệm của mình những đặc điểm nói lên tính toàn diện của sự phát triển con người Việt Nam.


Việc sử dụng những hình thức biểu đạt phong phú, dưới nhiều cách tiếp cận và chuyên ngành khoa học khác nhau cho thấy vấn đề con người luôn là vấn đề trung tâm của thời đại; con người luôn được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam. Và cũng chính vì vậy, trong bối cảnh lịch sử khác nhau, do nhiệm vụ cách mạng khác nhau, nét đặc trưng trong nội hàm của khái niệm thường tương thích với nhiệm vụ lịch sử của giai đoạn ấy.

Trong bối cảnh đất nước đang ra sức đấu tranh chống lại thực dân và đế quốc, nét nổi bật được nêu lên trong con người Việt Nam là con người có tinh thần yêu nước, đấu tranh kiên cường, bất khuất; rằng sự nghiệp phát triển và giải phóng con người Việt Nam gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau khi đánh bại ách thực dân, đế quốc, nhân dân ta bước vào xây dựng đời sống mới – xã hội chủ nghĩa, giá trị được đề cao trong con người Việt Nam ở giai đoạn này là yêu lao động, tinh thần hết mình vì tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân, yêu tự do và độc lập. Trong đó, do nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế nhằm cải thiện đời sống mới cho nhân dân, cho nên phẩm chất yêu lao động, tích cực lao động tập thể được nêu bật. Học giả Phạm Hựu, với bài: “Xây dựng những phẩm chất đạo đức xã hội chủ nghĩa của con người mới”, trong Về vấn đề xây dựng con người mới, đã viết: “Lao động sản xuất trở thành một yêu cầu phẩm chất đạo đức không thể thiếu trong toàn bộ những phẩm chất đạo đức của con người mới nước ta” [17, tr.412]. Nghị quyết nghị Đại hội Đảng lần thứ IV cũng đã khẳng định: “Con người mới là con người lao động với tinh thần tự giác cao, với đầy đủ nhiệt tình cách mạng; trung thực, thật thà, quý trọng và bảo vệ của công; lao động có kỹ thuật, có kỷ luật, có sáng tạo và đạt năng suất cao” [27, tr.28]. Còn trong bối cảnh đất nước mới tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, những giá trị con người Việt Nam được đề cao là có trình độ khoa học kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có tinh thần làm chủ về kỹ thuật - công nghệ tiên tiến… Đúng như nhận định của Giáo sư Trần Văn Giầu:

Xem tất cả 169 trang.

Ngày đăng: 21/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí