Phát Triển Con Người Toàn Diện – “Phát Triển Sự Phong Phú Của


những công trình tích hợp các bài báo hay chuyên khảo của một số tác giả thì lại thể hiện khiếm khuyết là thiếu tính hệ thống, chưa lôgíc hoặc còn sơ sài. Từ thực tế này, đặt ra cho chúng tôi phải có được một kết quả nghiên cứu vừa có tính tích hợp cao, vừa phản ánh toàn diện hơn nhưng lại phải sâu sắc, cụ thể.

Bốn là, trong bối cảnh hiện nay, khi mà vấn đề con người ngày càng trở nên quan trọng, toàn thể nhân loại coi đây là vấn đề trung tâm. Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc ta cũng khẳng định rằng phát triển con người Việt Nam là mục đích tối hậu của chế độ ta. Chính vì thế, nó đặt ra cho chúng tôi một nhiệm vụ quan trọng là phải nghiên cứu để bổ sung và phát triển hơn về mặt lý luận, phương pháp luận trong nghiên cứu vấn đề này. Đồng thời làm sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về thực trạng phát triển con người ở nước ta trong những năm vừa qua. Hơn nữa, lại phải biết kế thừa kinh nghiệm của các quốc gia có nhiều thành tựu trong phát triển con người. Trên cơ sở đó, mới có thể đưa ra được những định hướng đúng đắn cũng như những giải pháp thiết thực, hiệu quả, có giá trị góp phần cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong thực tiễn phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, nhằm mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Chương 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN


Lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại hơn 20 thế kỷ qua, đã có biết bao học thuyết triết học ra đời và phát triển, song sự ra đời của chủ nghĩa Mác giữa thế kỷ XIX vẫn là một bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình phát triển đó của lịch sử tư tưởng nhân loại. Với bản chất cách mạng và khoa học của mình, học thuyết Mác luôn xoay quanh những vấn đề của con người: Bản chất con người, sự giải phóng và phát triển con người toàn diện. Chính vì vậy, học thuyết Mác thực sự mang tính nhân văn chân chính; và cũng vì vậy, học thuyết Mác nói chung, học thuyết Mác về phát triển con người toàn diện không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có ý nghĩa thời vượt đại.

Nhận thức sâu sắc tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về con người và phát triển con người toàn diện, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa và vận dụng sáng tạo những quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng nước ta. Có thể khẳng định rằng, một trong những yếu tố cơ bản, hàng đầu dẫn đến những thành quả to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển con người Việt Nam trong những năm qua là việc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã vận dụng một cách đúng đắn học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự giải phóng và phát triển con người toàn diện vào sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện. Vì vậy, việc nghiên cứu để tiếp tục làm rõ những quan niệm của C.Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc hình thành một cách hệ thống về mặt lý luận và phương pháp luận khoa học cho tác giả luận án đi nghiên cứu và luận giải thực trạng, định hướng, cũng như việc đề ra những giải pháp phát triển con người toàn diện ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.


2.1. QUAN NIỆM CỦA C.MÁC VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN

Vấn đề phát triển con người toàn diện Việt Nam hiện nay - 5

Trong di sản lý luận của chủ nghĩa Mác, chúng ta thấy C.Mác không dành riêng một tác phẩm nào để chuyên bàn về phát triển con người toàn diện. Song, từ toàn bộ di sản lý luận của Mác, chúng ta có thể nói, với ông, phát triển con người toàn diện là “phát triển sự phong phú của bản chất con người”, phát triển năng lực và phẩm giá con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi sự “tha hóa” để con người được sống với cuộc sống đích thực của mình, được tự do phát triển và phát triển toàn diện.

2.1.1. Phát triển con người toàn diện – “Phát triển sự phong phú của

bản chất con người”

Theo C.Mác, con người là sản phẩm của sự phát triển cao nhất của tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự nhiên – thân thể vô cơ của nó. Bằng hoạt động thực tiễn của mình, nhất là hoạt động sản xuất vật chất, con người đã biến thuộc tính tự nhiên của mình thành bản chất xã hội. Đó là con người hiện thực “bằng xương, bằng thịt” và chính việc thông qua sự “giao tiếp” với giới tự nhiên, con người đã nhận biết sâu sắc về tự nhiên. Trong quá trình chinh phục và cải biến giới tự nhiên, con người đã hoàn thiện chính bản thân mình. Sự phát triển và hoàn thiện con người làm cho con người có khả năng làm chủ tự nhiên. Từ và cùng với quá trình “giao tiếp” với giới tự nhiên, con người cũng thực hiện sự “giao tiếp” giữa người với người thông qua hoạt động thực tiễn hết sức phong phú của mình. Cũng nhờ vậy, con người hình thành nên những phẩm chất đặc thù của con người – phẩm chất xã hội. Theo Mác: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [84, tr.11].

Trong quan niệm của Mác, con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử - xã hội, mà còn là chủ thể lịch sử, là “kẻ” sáng tạo ra lịch sử, do đó “tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống” [84, tr.29]. Từ quan niệm đó C.Mác khẳng định: Sự phát triển của


lực lượng sản xuất xã hội, trước hết phải có nghĩa là “sự phát triển phong phú của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân” [89, tr.168]. Theo đó, ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển và tiến bộ xã hội là phát triển và nâng cao năng lực con người, để con người được sống với cuộc sống đích thực của mình, chứ không còn bị “tha hóa”.

Với C.Mác, nội hàm của khái niệm phát triển con người toàn diện là tương đối phong phú và đa dạng. Trước hết là giải phóng con người khỏi sự phiến diện, què quặt, tha hóa do tình trạng bóc lột và sự phân công lao động mà chủ nghĩa tư bản mang lại. Có thể nói, toàn bộ học thuyết Mác, xét đến cùng, hướng tới mục tiêu cao cả nhất là giải phóng con người. Cơ sở của quan điểm này là ở chỗ, bản chất con người là vươn tới “tự do” và “làm chủ”. Coi xã hội tư bản là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại, song ở xã hội tư bản, khi một bộ phận người được tự do và làm chủ, còn đại bộ phận người lại bị “tha hóa”. Và khi coi việc “quy con người, một mặt, thành thành viên của xã hội công dân, thành cá nhân vị kỷ, độc lập, và mặt khác, thành công dân của nhà nước, thành pháp nhân là sự giải phóng chính trị” [82, tr.557], C.Mác xem đó là sự giải phóng con người khỏi sự khép kín về đẳng cấp, về địa vị, về vị trí của con người trong xã hội; là sự thừa nhận bản chất phổ biến của con người, thừa nhận bản tính loài của con người; là làm cho mỗi con người và cả cộng đồng nhân loại được sống trong hòa bình, nhân văn, nhân đạo và bình đẳng ... C.Mác còn cho rằng, mọi sự giải phóng con người đều phải “bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản thân con người” [82, tr.557], chứ không phải ở tính cá nhân vị kỷ, là công dân của xã hội, chứ không phải công dân chính trị phụ thuộc vào nhà nước và là pháp nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi con người nhận thức được và tổ chức được “những lực lượng của bản thân thành những lực lượng xã hội và vì vậy sẽ không còn tách lực lượng xã hội dưới dạng lực lượng chính trị ra khỏi bản thân mình – chỉ khi ấy giải phóng con người mới được hoàn thiện” [82, tr.558]. Như vậy, theo C.Mác chỉ có đưa con người trở về với bản chất đích thực của con người mới


thực sự là giải phóng con người. Và sự nghiệp giải phóng con người chỉ có thể thực hiện được bằng hoạt động thực tiễn, bằng cuộc đấu tranh để xóa bỏ sự tha hóa của con người, để con người được tự do và phát triển.

Trong xã hội tư bản, cơ sở của sự tha hóa con người, theo C.Mác, chính là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Bởi thế, C.Mác cho rằng, việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa – thứ “sở hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực tư bản và lao động” là tiền đề cơ bản cho việc xóa bỏ mọi sự tha hóa của con người, cho sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng xã hội. Và đó cũng chính là tiền đề cho sự phát triển con người toàn diện. C.Mác viết:

Xuất phát từ quan hệ của lao động bị tha hóa khỏi sở hữu tư nhân, còn có thể kết luận thêm rằng sự giải phóng xã hội khỏi sự sở hữu tư nhân,..v.v.., khỏi sự nô dịch, trở thành hình thức chính trị của sự giải phóng công nhân, vả lại vấn đề ở đây không chỉ là sự giải phóng họ, vì sự giải phóng của họ bao hàm sự giải phóng toàn thể loài người [91, tr.143].

Với quan niệm đó, C.Mác cho rằng, lực lượng xã hội có sứ mệnh thực hiện thành công sự nghiệp giải phóng con người là giai cấp vô sản. Luận điểm đó cũng cho thấy, C.Mác luôn đặt sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản trong mối quan hệ với giải phóng con người, giải phóng giai cấp và toàn thể loài người để con người, loài người nói chung, giai cấp vô sản nói riêng có điều kiện phát triển toàn diện.

Phát triển con người toàn diện trong tư tưởng C.Mác còn là phát triển tự do và làm chủ. Bản tính hoạt động để vươn tới “vương quốc của tự do” được C.Mác xem như là điểm xuất phát cho phương hướng lý tưởng của con người, cho việc cải tạo xã hội để sao cho mỗi thành viên của xã hội có thể phát triển hoàn toàn tự do và vận dụng tất cả mọi khả năng và sức lực của mình. Tự do ở đây, theo C.Mác trước hết được hiểu là con người phải nhận thức được quy luật, và “tự do” gắn liền với sự phát triển toàn diện của con người, như C.Mác đã nói trong “Lược thảo khoa kinh tế chính trị” rằng “cá nhân tự do xuất hiện trên cơ sở phát triển toàn diện con người”.


Đồng thời, “tự do” gắn với “làm chủ”, bởi vì việc nhận thức được quy luật chỉ là tiền đề của tự do. Trên cơ sở nhận thức được tính tất yếu của tự nhiên, của xã hội và chính bản thân mình, con người có thể làm cho bản thân mình tồn tại, phát triển phù hợp với tính tất yếu đó, hơn nữa, con người tự do khi con người có thể chi phối được thế giới bên ngoài và chính bản thân mình.

Phát triển con người toàn diện trong tư tưởng của C.Mác còn là phát triển cá tính, năng khiếu, sở thích, phát triển cá nhân con người với ý nghĩa đúng đắn và chân chính. C.Mác cho rằng:

Trong xã hội cộng sản, trong đó không ai bị hạn chế trong phạm vi hoạt động độc chuyên, mà mỗi người đều có thể tự hoàn thiện mình trong bất kỳ lĩnh vực nào thích, thì xã hội điều tiết toàn bộ nền sản xuất, thành thử tôi có khả năng hôm nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, buổi sáng đi săn, quá trưa đi đánh cá, buổi chiều chăn nuôi, sau bữa cơm thì làm việc phê phán, tùy theo sở thích của tôi [84, tr.47].

Thông qua tự do hoạt động theo sở thích như vậy, con người có thể tìm thấy sự hứng thú và phát huy tốt yếu tố nội lực, hiệu quả trong hoạt động sẽ được nâng cao và tính tích cực của hoạt động đó sẽ đóng góp chung vào sự phát triển của xã hội. Với quan niệm này, C.Mác còn nhấn mạnh việc phải làm cho cá nhân phát triển toàn diện những năng khiếu của mình. Và theo ông, chỉ khi các cá nhân riêng biệt liên kết thành cộng đồng thực sự, họ mới có được sự phát triển toàn diện mọi năng lực, phẩm chất của mình. Ông viết: “Chỉ có trong cộng đồng cá nhân con người mới có được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình, và do đó, chỉ có trong cộng đồng, con người mới có thể có được tự do cá nhân” [84, tr.108]. Như vậy, theo C.Mác, sự phát triển của cá tính là một mặt của sự phát triển tự do. Và do đó, phát triển năng khiếu, cá tính chính là sự phát triển độc đáo của con người.

Bên cạnh phát triển quyền tự do theo sở thích, phát triển văn hóa cũng là một nội dung quan trọng để hướng tới phát triển con người toàn diện. Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử xã hội. Trong những giá trị con người sáng tạo ra


thì văn hóa là một sản phẩm đặc biệt, tính đặc biệt của nó ở “giá trị” văn hóa. Với tư cách là một bộ phận trong kiến trúc thượng tầng, các giá trị văn hóa trở thành cội nguồn của giá trị trong đời sống tinh thần con người. Nó không phải là cái có sẵn, bất biến, mà được hình thành, phát triển gắn liền với hoạt động của con người trong một hệ thống các hoạt động giao tiếp với tự nhiên, với con người, với tộc loại và với lịch sử. Quá trình giao tiếp này sản sinh ra và tiếp tục làm giàu thêm đời sống tinh thần, văn hóa của cộng đồng, dân tộc và nhân loại. Vì vậy, phát triển văn hóa là một yêu cầu quan trọng trong quá trình phát triển và hoàn thiện con người, bởi “mỗi bước tiến lên trên con đường văn hóa lại là một bước tiến tới tự do” [87, tr.164].

Như vậy, có thể nói phát triển con người trong tư tưởng của C.Mác là phát triển con người trong mối quan hệ hài hòa với tự nhiên và xã hội, phát triển các giá trị văn hóa – giá trị tinh thần của con người, phát triển sự phong phú của bản chất con người, nâng cao năng lực con người, giải phóng con người khỏi mọi sự tha hóa, khỏi sự phiến diện, què quặt do tình trạng bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở đó, con người phát triển cá tính, năng khiếu, sự tự do và năng lực làm chủ xã hội của mình.

2.1.2. Phát triển con người toàn diện gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội, thông qua lao động sản xuất và hoạt động thực tiễn của con người

Khi coi con người là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử, C.Mác đã khẳng định rằng: “Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản thân mình” [83, tr.41]. Sự vận động, phát triển của lịch sử chính là sự thay thế các nền văn minh, văn hóa, gắn liền với quá trình tiến hóa, phát triển của con người, của xã hội loài người. Bằng hoạt động thực tiễn sáng tạo của mình, con người không chỉ phát triển chính bản thân mình, mà thông qua đó, con người còn sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người. C.Mác viết: “Xã hội … là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người” và “lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người” [90, tr.658]. Sáng tạo ra


toàn bộ mọi nền văn minh và văn hóa của nhân loại, con người thể hiện ra là giá trị sản sinh ra mọi giá trị, là thước đo giá trị của mọi giá trị. Như vậy, xét về thực chất, con người không chỉ là sản phẩm, là chủ thể, mà còn là mục đích của sự phát triển xã hội. Và do vậy, sự phát triển con người toàn diện không thể không gắn với sự phát triển xã hội.

Con người không chỉ sáng tạo ra lịch sử, mà con người còn chính là động lực cơ bản nhất cho sự phát triển của lịch sử. Đứng trên lập trường duy vật về lịch sử, C.Mác cho rằng tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội. Sản xuất càng phát triển, tính chất xã hội hóa của sản xuất cũng ngày càng cao. Sự phát triển mới của nền sản xuất sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới, những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất. Đến lượt mình, nền sản xuất đó sẽ tạo ra những điều kiện cho sự phát triển con người toàn diện, sẽ làm cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội “có năng lực phát triển toàn diện” [85, tr.474]. Điều này cho thấy C.Mác luôn đặt sự phát triển của con người trong quan hệ biện chứng với phát triển sản xuất và phát triển xã hội. Hơn thế, C.Mác còn coi sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển con người toàn diện là “một trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã hội” [86, tr.52].

Để phát triển con người toàn diện, theo C.Mác, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa lao động sản xuất với giáo dục về thể chất và trí tuệ. C.Mác viết: “Kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục đối với tất cả những trẻ em trên một lứa tuổi nào đấy, coi đó không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là phương pháp duy nhất để sản xuất ra con người phát triển toàn diện nữa” [88, tr.688]. Với quan niệm này, C.Mác còn đề cập đến một khái niệm rộng hơn, toàn diện hơn - hoạt động thực tiễn. Coi hoạt động thực tiễn là một phương pháp phát triển con người, C.Mác cho rằng hoạt động thực tiễn tác động trực tiếp đến tư duy. Bằng hoạt động thực tiễn và thông qua thực tiễn cải biến giới tự nhiên, biến đổi xã hội, con người ngày càng hoàn thiện mình hơn, xét trên cả hai phương diện sinh học và xã hội.

Xem tất cả 169 trang.

Ngày đăng: 21/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí