Năm 1971, Những ngôi sao xa xôi của một tác giả nữ ra đời. Với Những ngôi sao xa xôi, Lê Minh Khuê từng làm say lòng biết bao độc giả miền Bắc khi viết về ba cô gái thanh niên xung phong chiến đấu trên một cao điểm Trường Sơn. Công việc của các cô gái là “khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”. Giữa tiếng bom rơi và tiếng gào rú của máy bay, các cô vẫn hát, vẫn thêu thùa và chép nhạc vào sổ tay. Sống giữa niềm ngưỡng mộ của những người lính trẻ, lòng ba cô gái đầy ắp ước mơ về tương lai tươi đẹp… Truyện ngắn này của Lê Minh Khuê khép lại bằng lời của một cô gái: “Tôi yêu tất cả mọi người, một tình yêu nồng nàn, khó nói” và cũng khép lại một thời kỳ đặc biệt và của văn học viết về chiến tranh một thời.
Từ sau năm 1975, có một số nhà văn vẫn viết về chiến tranh nhưng chiến tranh không còn được nhắc đến với những âm hưởng chiến thắng hào hùng nữa mà ở những mặt trái của nó: những mất mát và đau khổ của con người, nhất là những người phụ nữ. Chiến tranh dù đã qua đi, nhưng những tàn tích mà nó để lại thì còn làm người ta nhức nhối. Viết về những người phụ nữ bất hạnh, về những mất mát khôn nguôi và vốn không thể nguôi ngoai thời hậu chiến, dường như các tác giả nữ muốn gửi gắm vào đó thông điệp về sự tàn ác, man rợ của chiến tranh và cả những ước mong giá như chiến tranh đừng bao giờ hiện hữu. “Những người có lối sống lành mạnh và từng thật sự trải qua những tổn thương sâu sắc thì không chỉ ao ước bình yên suông, mà sẽ cố tránh những tổn thương không đáng có” [88, tr.162]. Điều này được thể hiện rất rõ trong sáng tác của một số nhà văn nữ như Dạ Ngân với Gia đình bé mọn; Lê Minh Khuê với Bi kịch nhỏ, Một chiều xa thành phố, Anh lính Tony D, Thị trấn, Mong manh như là tia nắng, và nhất là tập truyện Nhiệt đới gió mùa; Nguyễn Thị Thu Huệ với Người đi tìm giấc mơ; Y Ban với Điều bây giờ mới hiểu; Võ Thị Hảo với Người sót lại của rừng cười, Trận gió xanh rêu, Dây neo trần gian, Hồn trinh nữ,…
Chiến tranh mặc dù đã đi qua, nhưng những tàn tích mà chiến tranh để lại thì còn mãi. Chiến tranh làm cho xã hội kiệt quệ, mở đường cho nghèo đói; và chính
sự nghèo đói làm xuất hiện những vết rạn nhân cách. Cảnh goá bụa của những người đàn bà trong gia đình Mỹ Tiệp là những mất mát chẳng thể bù đắp; những kẻ làm khổ Mỹ Tiệp như Tuyên – chồng nàng, và Hai Khâm – trưởng ban tuyên huấn tỉnh thì lại đua nhau hiện hình vào thời hậu chiến. Gia đình bé mọn của Dạ Ngân như một tiếng chuông buồn gióng lên báo hiệu một cuộc chiến mới lại bắt đầu – cuộc chiến không nhằm chống lại kẻ thù trực diện của đất nước, của dân tộc; mà là cuộc chiến để tìm lại chính mình, để được sống thật là mình của những người phụ nữ thời hậu chiến.
Bước qua thời kỳ của Những ngôi sao xa xôi, tập truyện Nhiệt đới gió mùa của Lê Minh Khuê đưa người đọc trở lại với chiến tranh và thời bao cấp. Mười hai truyện ngắn trong Nhiệt đới gió mùa (Nghĩ ngợi quẩn quanh, Xe Camry ba chấm, Nước trong, Chuyện bếp núc, Trên đường về, Đồ cũ, Lãng mạn nửa mùa, Một mình, Ngày còn dài, Sống chậm, Nhiệt đới gió mùa và Ráp Việt) là mười hai truyện ngắn được tác giả tái hiện ở nhiều cung bậc cảm xúc. Mặc dù trong những trang viết của Lê Minh Khuê, người ta không đọc thấy những cảnh giết chóc man rợ của chiến tranh, nhưng người ta có thể cảm nhận thấy ngay những khát vọng tươi sáng bị xé toạc, những nỗi đau xót lặng lẽ hiện hữu, và nhất là những mối hận thù và cả những nhập nhèm vô lý mà một thời chúng ta không dám nói ra. Với Nhiệt đới gió mùa, “Lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, có một truyện vừa ép lại từ một tiểu thuyết, cách giải thích của chị về chiến tranh làm tất cả những ai đọc nó đều rơi nước mắt. Chiến tranh, ngày xưa người ta nhìn bằng con mắt màu hồng. Nhưng qua con mắt của Lê Minh Khuê chiến tranh hiện lên, khắc nghiệt và dữ dằn”. [120, tr.122]. Nhiệt đới gió mùa xới dậy bi kịch trong gia đình một người đàn ông sống chung với vợ cả và vợ lẽ. Mỗi người đều có một cậu con trai. Mối ghen tuông, thù hận giữa hai người đàn bà dẫn tới một lần, sau trận cãi vã, người vợ lẽ chạy ra khỏi cửa và vấp phải đinh thợ mộc. Chiếc đinh cắm vào một bên mắt khiến người vợ lẽ vĩnh viễn mất đi con mắt. Sau tai nạn, cảm thấy bị ghẻ lạnh, hắt hủi, hai mẹ con người vợ lẽ bỏ đi biệt tích. Một thời gian sau, người anh con vợ cả trở thành một
chiến sĩ cộng sản. Người em theo mẹ vào Nam giờ là một sĩ quan cao cấp trong hàng ngũ lính ngụy. Họ gặp lại nhau khi ở hai chiến tuyến, trong tình cảnh người anh bị bắt và chiến tranh là cơ hội để người em đòi "món nợ" năm xưa cho mẹ bằng cách móc một con mắt người anh. Những câu văn lạnh lùng, trúc trắc khiến người đọc cảm nhận tận cùng sự tàn khốc giữa người với người trong cuộc chiến, khi chính lòng hận thù chứ không phải điều nào khác khiến con người sống tàn ác với nhau.: “Mỗi bên chỉ còn một con mắt nhìn nhau qua sự hận thù”. Chiến tranh, khi đó, chỉ là ngọn lửa bên ngoài, làm cho lửa hận thù bên trong mỗi con người bùng cháy. Với một cái nhìn trực diện, trong Nhiệt đới gió mùa, Lê Minh Khuê khai thác chiến tranh ở góc độ đau đớn, tàn khốc nhất, khi không chỉ là câu chuyện đầu rơi máu đổ từ hai chiến tuyến mà là sự chia cắt từ một phía. Và đặc biệt, lần đầu tiên, nhà văn nhìn chiến tranh qua cuộc chiến đau thương trong một gia đình.
Võ Thị Hảo chính là tác giả được nhắc đến nhiều nhất khi viết về những người phụ nữ phía sau những cuộc chiến dù đã qua đi nhưng vẫn còn nhức nhối, vẫn còn là nỗi đau. Là nhà văn sinh ra trong chiến tranh, lớn lên lại chứng kiến biết bao sự khó nhọc, vất vả hy sinh của những người phụ nữ, Võ Thị Hảo là nhân chứng của một thời kỳ lịch sử bi tráng và thấm đầy nước mắt của dân tộc. Trong hình dung của chị, có biết bao nữ thanh niên xung phong đã cống hiến cho đất nước cả tuổi xuân của mình và khi trở về sau cuộc chiến tranh vẫn chịu nhiều thiệt thòi, thậm chí chỉ một mong ước giản đơn là được làm vợ, làm mẹ nhiều khi cũng mãi chỉ là khao khát, ước mong. Đất nước hết chiến tranh, số phận những người phụ nữ như thế lại rơi vào bi kịch đời thường. Bằng tấm lòng thương cảm, nhạy cảm của một nhà văn nữ tinh tế, đằng sau những câu chữ trau chuốt của Võ Thị Hảo là một cái nhìn đầy cảm thông và những day dứt khôn nguôi về số phận con người, về cuộc đời và nhân tình thế thái.
Trong nhiều truyện ngắn của Võ Thị Hảo, người ta cảm nhận được sự âu yếm mang chút thánh ca của tác giả khi nói về tình yêu, còn lại là sự cảm thông của trái tim người đàn bà khi viết về nỗi đau của đồng giới. Đâu là căn nguyên bất hạnh
của thân phận con người? Ẩn sâu trong những trang viết của Võ Thị Hảo là sự lên án đối với cái ác vẫn còn ẩn hiện đâu đó trong cuộc đời này. Tập truyện ngắn Người sót lại của rừng cười do nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành là một tập truyện viết về một xã hội đã tan chiến nhưng chưa tàn chiến. Hình ảnh những người nữ thanh niên xung phong coi giữ một kho quân nhu bị cô lập ở Trường Sơn ngày nào trong những trang truyện của Võ Thị Hảo hiện lên trong tác phẩm khiến người ta không khỏi xót xa. Trong một lần đi lấy quân nhu, một anh lính đã không khỏi bàng hoàng khi nhìn thấy họ bởi họ trông giống như “những con vượn trắng” với những hình hài con gái “hoàn toàn trần truồng, tóc xoã, vẻ mặt bơ phờ và đang ngửa cổ ra sau cười khanh khách” [103, tr.109]. Lời anh lính đó ghi trong nhật ký giống như lời nhắn nhủ mà Võ Thị Hảo muốn gửi đến những thế hệ sau này: “Sẽ không bao giờ mình quên được những người đã thấy ở rừng cười. Có lẽ cảnh chết chóc còn dễ chịu hơn! Ôi! Thế là sau chín năm ở chiến trường, tôi đã nhìn thấy ở rừng cười cái cười méo mó man dại của chiến tranh. Việc chiến tranh lôi những người phụ nữ vào cuộc chiến thật là khủng khiếp. Tôi sẵn sàng chết hai lần cho họ khỏi lâm vào cảnh ấy”. [103, tr.113]. Những nữ thanh niên xung phong ấy đã phải sống trong một thế giới đầy bom đạn, nhưng việc đối mặt với bom đạn không đáng sợ bằng việc đối mặt với những khát khao bản năng không được hưởng. Tuy nhiên, những người phụ nữ ấy vẫn đẹp diệu kỳ dưới ngòi bút của Võ Thị Hảo- một cái đẹp thật thánh thiện, thật nhân văn và rất truyền thống. Bản năng nữ giới khát khao hạnh phúc là thế, nhưng họ lại dành viên đạn cuối cùng để tránh ô nhục khi sa vào tay kẻ thù: “Chuyện thần thoại của chiến trường không ở đây. Bốn cô gái không chống chọi nổi đã dành những viên đạn cuối cùng cho mình để tránh ô nhục”. [103, tr.111]. Dưới ngòi bút của Võ Thị Hảo, chiến tranh đã khắc dấu ấn của nó lên đời sống xã hội trong một thời kỳ dài đằng đẵng, thậm chí ngay cả khi chiến tranh đã chấm dứt. Cuộc sống của Thảo – nhân vật nữ thanh niên sống sót duy nhất trở về sau chiến tranh – người còn sót lại duy nhất của rừng cười, mãi vẫn không thể hoà nhập được với cuộc sống bên bạn bè ở trường đại học thời hậu chiến. Cô luôn bị
ám ảnh, bị dày vò bởi những ký ức chiến tranh trong cuộc sống hàng ngày và trong cả những giấc mơ: “Thảo thường qua đêm với hai loại giấc mơ: một loại giấc mơ thời thơ bé, cô thấy may mắn nhất là nhặt được chiếc cặp ba lá, khá nữa là nhặt được trứng vịt đẻ rơi. Còn trong giấc mơ tuổi thanh xuân, cô chỉ thấy tóc rụng như trút, rụng đầy khuôn ngực đã bị đâm nát của chị Thắm, và từ trong đám tóc rối ấy lấy ra hai giọt nước mắt trong veo và rắn câng như thuỷ tinh, đập mãi không vỡ”. [103, tr.114].
Có thể bạn quan tâm!
- ?gái Mới” Trong Tiểu Thuyết Tự Lực Văn Đoàn - Hình Ảnh Mới Của Ý Thức Phái Tính Và Nữ Quyền Trong Văn Học Việt Nam
- Bối Cảnh Lịch Sử Xã Hội Và Tình Hình Văn Học Việt Nam Từ Sau Năm 1975
- Người Phụ Nữ Và Những Cuộc Chiến Vẫn Còn Nhức Nhối
- Tính Dục Như Một Phương Thức Thể Hiện Bản Ngã
- Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu - 13
- ?xét Lại” Thế Giới Đàn Ông Bằng Con Mắt Đàn Bà
Xem toàn bộ 173 trang tài liệu này.
Khắc hoạ nỗi đau thương sau chiến tranh, hầu hết những nhân vật nữ của Võ Thị Hảo không hề có cuộc sống bình lặng. Họ cô đơn đến mức không còn biết mình đang sống để cho ai và không tự định hướng được cuộc đời mình phía trước. Cuộc đời họ như những con thuyền giữa dòng xoáy hun hút của cuộc sống mà không còn nơi neo giữ và bám víu. Họ là những người vợ vắng chồng vô tăm tích, dở điên dở tỉnh. Họ là những người phụ nữ suốt đời dò hỏi và tự trả lời về những điều mà chính họ cũng không hiểu nổi, không tin nổi. Họ là những bà goá đơn độc, buồn tủi, “đa số là đàn bà đã luống tuổi và khô héo”, họ “ngồi lầm lì thành một đám khăn trắng trông xa lô nhô như cò đậu. Không ai khóc. Họ ngồi lặng thít trước khói nhang”. [105]. Những người đàn bà có chồng chết trận, “những con mẹ không chồng” đã lập thành làng Đẽo hay còn gọi là làng Goá. Nếu như nỗi cô đơn của Thảo trong Người còn sót lại của rừng cười là sự tê dại, thảng thốt, buốt giá và thấm thía thì nỗi cô đơn của những người đàn bà có chồng chết trận đã chai lì. Họ sống và gặm nhấm từng nỗi đau giữa cuộc đời vô nghĩa.
Là một nhà văn nữ, viết về phụ nữ, đòi hỏi quyền lợi chính đáng của người phụ nữ, nên trong nhiều truyện ngắn của mình, Võ Thị Hảo cũng đã không ngần ngại lên tiếng đòi quyền làm mẹ cho những người phụ nữ không chồng- những người phụ nữ đã bỏ lại cả một thời xuân sắc ở chiến trường và khi trở về sau chiến tranh, mặc dù họ đã “quá lứa lỡ thì”, nhưng khát khao với thiên chức làm mẹ của họ là một khát khao hoàn toàn chính đáng và buộc xã hội phải công nhận.
Đúng như lời nhận xét của nhiều người, bằng tác phẩm của mình, Võ Thị Hảo thuộc thế hệ nhà văn “chối bỏ cổ tích” và không tin vào “thần thoại chiến trường”. Với Võ Thị Hảo, cách viết tô hồng hiện thực chiến tranh như nhiều nhà văn thuộc thế hệ trước đã làm là một điều hoàn toàn xa lạ. Chiến tranh trong tác phẩm của Võ Thị Hảo thường được hình tượng hóa bằng những nụ cười méo mó, man dại. Chiến tranh làm con người ta đánh mất nụ cười tự nhiên. Đánh mất nụ cười tự nhiên, con người đánh mất chính mình. Và với người phụ nữ, còn gì đau đớn hơn khi phải nở một nụ cười méo mó?
Viết về những người phụ nữ phía sau những cuộc chiến đã tan nhưng chưa hẳn đã tàn, bằng cách nhìn và cách cảm rất riêng của mình, các nhà văn nữ đương đại đã đưa độc giả đến với những thảng thốt, ngỡ ngàng về những thân phận phụ nữ vẫn đang phải gánh chịu nỗi buồn chiến tranh – điều mà ai cũng nghe nhưng không phải ai cũng hiểu. Hơn ai hết, những người phụ nữ trở về sau những cuộc chiến cần phải được thương yêu, được đón nhận và trân trọng. Họ không thể cứ phải cất bước mãi “giữa những đầm lầy mênh mông bùn” trong “đau ốm”, “rét mướt” để rồi lại đau đáu hy vọng, đau đáu chờ trông vào những điều có thể chẳng bao giờ là thực. Âm hưởng nữ quyền đằng sau mỗi trang viết của các tác giả nữ không phải chỉ nằm ở những hiểu biết theo cảm nhận thiên tính về những mảnh vỡ trong tâm hồn người phụ nữ sau chiến tranh mà một thời người ta thường cố tình che giấu chúng đi sau lần áo mỏng của vinh quang và chiến công, mà còn nằm trong những hy vọng về một tương lai an bình hơn cho người phụ nữ sau những đớn đau và mất mát. Cuộc sống hiện đại mở ra cho người phụ nữ những cơ hội, nhưng cũng có thể khép lại những cơ hội đó của họ bởi tính bất toàn của nó, nhất là với những người phụ nữ vốn chẳng thể có được sự “lành lặn” trong tâm hồn sau bom đạn chiến tranh. “Không phải lúc nào chúng ta cũng thay đổi được hoàn cảnh, nhưng chúng ta luôn có thể thay đổi được cách ứng xử của mình với hoàn cảnh” [88, tr.232]. Chỉ có sự thấu hiểu, cảm thông, yêu thương chân thành mới có thể nâng đỡ, chở che được
những tâm hồn mỏng manh và dễ bị tổn thương của những người phụ nữ vốn đã bị tổn thương bởi một quá khứ chẳng yên bình.
3.3.1.2. Người phụ nữ và những khát khao hạnh phúc đời thường
Các tác giả nữ thường có lợi thế trong việc diễn đạt sâu sắc nội tâm nhân vật nữ, trong việc bộc lộ đến tận cùng thái độ, cách cảm, cách nghĩ của giới mình. Sự khám phá thế giới tâm hồn người phụ nữ được các nhà văn nữ thể hiện ở mọi phương diện, từ trạng thái đến tình cảm, những cung bậc cảm xúc, niềm vui và nỗi buồn, những khát khao đam mê và cả những điều sâu kín nhất trong tâm hồn họ. “Thế giới đàn ông và thế giới phụ nữ là những thế giới khác nhau. Chúng có thể giao thoa với nhau ở một số chỗ, nhưng không hoàn toàn trùng nhau. Trong thế giới phụ nữ, điều có ý nghĩa hơn cả là những vấn đề gắn với tình yêu, gia đình và con cái”. [17].
Văn chương xét tới cùng là thân phận con người. Tác phẩm văn chương chỉ có tác dụng khi người nghệ sĩ nhận thức rõ bản chất con người thực tại. Đi vào thế giới văn xuôi nữ đương đại, chúng ta có thể cảm nhận thấy một cách rất rõ ràng rằng đề tài chủ yếu của văn xuôi nữ bao trùm là các vấn đề về gia đình, về vấn đề “thiên đường bị đánh mất”, về sự tìm tòi ý nghĩa của cuộc đời và những mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Người phụ nữ dù trong điều kiện hoàn cảnh nào cũng chỉ muốn có được sự an ủi, đồng cảm, chia sẻ từ những người bạn khác giới. Những cô, những nàng trong Người đàn ông duy nhất, Tim vỡ, Nàng tiên xanh xao của Võ Thị Hảo; người đàn bà trong Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ, Đàn bà sinh ra từ bóng đêm của Y Ban đều chỉ mong muốn có được một người đàn ông chân chính để gửi trọn tình yêu thương. Nhân vật Tho trong Người đàn bà kể chuyện, Không Bé trong Đàn bà của Lý Lan, dẫu mỗi người đều mang một bi kịch khác nhau, nhưng đều có chung một nỗi niềm - đó là niềm mong ước về một gia đình, một người chồng thương yêu thấu hiểu những trăn trở của mình.
Trong tác phẩm Nhà không có đàn ông, nữ nhà văn Dạ Ngân đã phát biểu rất hay về sức mạnh nam quyền ẩn mình trong văn hóa: “Những người thân của chị đã thành công khi họ nhân danh đủ thứ truyền thống và tiêu chuẩn, tình thương và sự hy sinh nhưng không ai để lộ một lẽ nhân danh khác, ấy là tính đàn bà”. Vậy tính đàn bà mà Dạ Ngân đề cập ở đây là gì? Tại sao nhà văn phải nhấn mạnh ba chữ tính đàn bà? Và tính đàn bà đó được thể hiện ra sao trong những trang viết của các tác giả nữ về chính giới mình?
Xét ở một phương diện nào đó, lời giải đáp cho những câu hỏi trên sẽ không phải là quá khó nếu chúng ta đặt tính đàn bà bên cạnh một tính từ trái nghĩa với nó. Tuy nhiên, theo chúng tôi, để hiểu được ý nghĩa chân xác của từ này không phải là một việc dễ dàng bởi tính đàn bà xưa nay chỉ được nhắc đến trong văn học Việt Nam bằng cảm nhận “bề nổi” của những người đàn ông khi đề cập đến khái niệm này. Bằng cảm nhận riêng, chúng tôi cho rằng những yếu tố liên quan đến tính đàn bà không phải là những điều khó đoán, mà chỉ là những điều người ta chưa hiểu hoặc không thể hiểu nếu nhìn nhận vấn đề từ những đôi mắt nam quyền. Một trong những yếu tố đó mà chúng tôi muốn đề cập ở đây chính là những khát khao hạnh phúc đời thường của người phụ nữ trong văn xuôi nữ những năm gần đây.
Như chúng tôi đã đề cập ở trên, chưa bao giờ hình tượng người phụ nữ lại được đặt ở vị trí trung tâm và trọng tâm trong những trang viết của các nhà văn như hiện nay, đặc biệt là trong sáng tác của các tác giả nữ. Có lẽ chính cuộc sống hiện đại “bộn bề bóng tối và ánh sáng” khiến người ta không khỏi thắc thỏm, lo lắng về số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ. Hơn ai hết, những người phụ nữ chính là những người cần một cuộc sống bình yên thực sự, bình yên trong tâm hồn và trong cả những khát khao hạnh phúc thường nhật. Nhưng dường như nhân vật nữ trong sáng tác của các cây bút nữ những năm gần đây luôn phải mang trong lòng mình “cây thập tự” của sự buồn tủi, cô đơn và nhọc nhằn của mỗi kiếp người. Những nhân vật nữ ấy, dù là có vẻ ngoài xinh đẹp hay khiếm khuyết, dù sống ở thành thị hay nông thôn, dù thuộc tầng lớp trí thức hay những người lao động bình