MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiệm vụ hàng đầu trong phát triển kinh tế của Việt Nam là hòa nhập thành công vào sân chơi chung quốc tế. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế tạo cho Việt Nam cơ hội bứt phá để gia nhập vào hệ thống các quốc gia phát triển trên thế giới. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam không những phải chấp nhận luật chơi chung của quốc tế, phải chơi theo cách mà luật quốc tế đặt ra mà còn phải tự đặt ra cho mình biện pháp để làm thế nào Việt Nam hòa nhập được vào sân chơi chung quốc tế đó. Trong xu thế chung đó, hoạt động giao lưu thương mại, kinh tế đóng vai trò quan trọng để thúc đẩy Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Để các giao lưu thương mại đó được thông thương, ổn định và phát triển thì yếu tố quan trọng đầu tiên đó là sự hiểu biết và tôn trọng và thực thi luật lệ của nhau và luật lệ chung trong quan hệ buôn bán.
Ở Việt Nam, thực tiễn giao lưu thương mại quốc tế nói chung và thực tiễn ký kết hợp đồng mua bán quốc tế nói riêng cho thấy có rất nhiều tranh chấp thương mại xảy ra do các bên nhầm lẫn hoặc không hiểu biết pháp luật khi tham gia vào quan hệ buôn bán quốc tế, điều đó gây ra không ít thiệt hại kinh tế cho các bên. Không chỉ vậy, nhiều tranh chấp xảy ra còn xuất phát từ chính nguyên nhân nội tại là hệ thống pháp luật thực định hiện hành về các giao dịch thương mại quốc tế hay hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (sau đây viết tắt là: HĐMBHHQT) của Việt Nam chưa được hoàn thiện đầy đủ so với quy định pháp luật quốc tế.
Xuất phát từ thực trạng đó, nhiều giáo trình, bài giảng của các Trường đại học đã viết về các vấn đề pháp lý trong hợp đồng thương mại quốc tế, nhiều công
trình nghiên cứu khoa học đã được thực hiện nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Tuy nhiên mỗi đề tài và công trình nghiên cứu đều có nghiên cứu ở những góc độ và khía cạnh khác nhau, chẳng hạn như Luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Lê Vân Hà, Trường đại học Luật Hà Nội (2002) với đề tài: “Một số vấn đề pháp lý về Hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”. Luận án tiến sĩ luật học Trương Văn Dũng Trường đại học Luật Hà Nội với đề tài: “Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam”…Sách chuyên khảo của TS. Lê Thị Bích Thọ về Hợp đồng kinh tế vô hiệu (2004), NXB chính trị quốc gia, Hà Nội. Đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên biệt về hiệu lực của HĐMBHHQT, vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài này với nội dung: “Vấn đề hiệu lực của HĐMBHHQT và việc hoàn thiện pháp luật việt nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế”. Tôi hy vọng bằng việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định pháp luật và thực trạng thực thi pháp luật về HĐMBHHQT trong tương quan so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới tôi có thể đóng góp được một phần nhỏ bé nhằm hạn chế bớt được tranh chấp quốc tế có thể xảy ra khi các bên tham gia ký kết HĐMBHHQT và hoàn thiện một số quy định pháp luật Việt Nam còn bất cập so với pháp luật quốc tế về HĐMBHHQT.
Có thể bạn quan tâm!
- Vấn đề hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam - 1
- Các Đặc Điểm Của Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế
- Các Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế
- Xung Đột Về Thời Điểm Hiệu Lực Của Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu của quá trình nghiên cứu đề tài luận án là nghiên cứu và làm rõ các quy định về hiệu lực của HĐMBHHQT theo pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt Nam đồng thời đưa ra những phân tích, đánh giá những điểm giống nhau, khác nhau và sự không phù hợp về các điều kiện có hiệu lực HĐMBHHQT theo pháp luật VN so với pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài và đề xuất hướng hoàn thiện.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tác giả luận văn đã nghiên cứu các định nghĩa, khái niệm về HĐMBHHQT; khái niệm về hiệu lực của HĐMBHHQT; nghiên cứu nội dung các quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực của HĐMBHHQT, trường hợp HĐMBHHQT vô hiệu
và hậu quả pháp lý của nó. Ngoài ra tác giả cũng nghiên cứu một số bản án xét xử các tranh chấp hợp đồng xuất nhập khẩu liên quan đến xác định hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; một số mẫu ký kết HĐMBHHQT được các doanh nghiệp áp dụng và thực tiễn ký kết hợp đồng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả luận văn đã sử dụng các nguồn pháp luật từ Điều ước, Công ước đa phương về HĐMBHHQT (Công ước quốc tế đa phương về mua bán hàng hóa quốc tế - CISG; các nguyên tắc pháp lý cơ bản về hợp đồng thương mại quốc tế của Unidroit…); pháp luật một số quốc gia về dân sự, thương mại, hợp đồng (Pháp luật Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan, Pháp, Đức); Pháp luật Việt Nam về HĐMBHHQT: Bộ luật dân sự Việt Nam 2005, Luật thương mại 2005, Luật giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật và luật đó …
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là các phương pháp như: phương pháp duy vật biện chứng, Phương pháp phân tích, Phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp so sánh….
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Việc nghiên cứu một cách hệ thống các quy định pháp luật Việt Nam và so sánh pháp luật của nước ngoài và pháp luật quốc tế về HĐMBHHQT có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý chuyên ngành. Hơn nữa kết quả nghiên cứu còn thể hiện bằng một vài kiến nghị đề xuất về sửa đổi, bổ sung pháp luật về hiệu lực của HĐMBHHQT. Tác giả cũng rất mong muốn toàn bộ kết quả nghiên cứu về đề tài có thể được các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình ký kết HĐMBHHQT và được các nhà làm luật quan tâm khi xây dựng và thực thi pháp luật về HĐMBHHQT.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1:
Khái quát chung về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và vấn đề hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Chương 2:
Các quy định của pháp luật Việt Nam về hiệu lực của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong tương quan so sánh với pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế
Chương 3:
Thực trạng thực thi và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hiệu lực hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong điều kiện hội nhập quốc tế.
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
1.1. Khái quát chung về hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1 Định nghĩa
Trong quá trình lao động của lịch sử xã hội loài người, con người sáng tạo ra của cải vật chất, các sản phẩm này được tạo ra ngày càng đa dạng và phong phú, không chỉ phục vụ cho nhu cầu của bản thân mà còn dư thừa cung cấp cho xã hội thông qua sự trao đổi hàng hóa. Nhu cầu trao đổi hàng hóa ấy cũng dần trở thành xu hướng khách quan, tạo ra mối quan hệ trao đổi, mua bán giữa con người với con người trên cơ sở ý chí tự nguyện, mong muốn của các bên đạt được lợi ích của mình. Mối quan hệ đó trở thành những bản giao kèo. Khi pháp luật hình thành thì mối quan hệ đó gọi là hợp đồng hoặc khế ước (theo thuật ngữ luật nước Phương Tây) và được pháp luật bảo vệ. Như vậy có thể nói hợp đồng mua bán được thiết lập để mang lại lợi ích hợp pháp mong đợi cho các bên.
Hầu hết các hệ thống pháp luật Phương tây định nghĩa chung về hợp đồng là “một lời hứa được luật pháp đảm bảo bằng các hình phạt”. Tuy nhiên luật pháp của các nước khác nhau lại có quy định khác nhau về bản chất của lời hứa này. Các nước theo hệ thống luật lục địa thì quan điểm “ưng thuận” (consensuel) nổi trội hơn cả: ý định giao kết hợp đồng của các bên là điều kiện cần và đủ để chứng minh có tồn tại một nghĩa vụ hợp đồng. Các hệ thống luật khác lại đòi hỏi rằng lời hứa phải được hoàn chỉnh bởi một thủ tục sau đó, có thể là ký một văn bản chính thức, hoặc trao lại một cái gì đó. Một số hệ thống luật khác lại yêu cầu phải có sự trao đổi về kinh tế để làm rõ và củng cố lời hứa (trong luật của Anh gọi là “consideration”).
Ở các nước theo truyền thống thông luật (common law) [13] như Anh, Mỹ, Ốtxtrâlia và một số nước chịu ảnh hưởng của truyền thống pháp luật này không phân biệt về mục đích và nội dung của Hợp đồng . Ở Anh có Luật về bán hàng (Sale of Good Act) 1893 và được sửa đổi bổ sung 1980; Bộ luật dân sự của Thụy Sỹ cũng có quy định về hợp đồng mua bán thương mại.
Điều 1101 của Bộ luật dân sự Pháp [2, tr. 667] định nghĩa: “ Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một việc gì đó.”
Điều 453 của Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan [3, tr.123] quy định: “Mua bán là một hợp đồng mà một người gọi là người bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho một người khác gọi là bên mua, và người mua đồng ý trả cho người bán giá trị của nó.”
Điều 428 của BLDS 2005 [1, tr. 95] có định nghĩa về hợp đồng mua bán tài sản như sau: "Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”. Điều 3 Luật Thương mại 2005 [4, tr.3] của Việt Nam (LTM 2005) đã định nghĩa “hoạt động mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyên sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”. Như vậy, pháp luật Việt Nam không có định nghĩa chính xác thế nào là Hợp đồng mua bán hàng hóa (HĐMBHH). Tuy nhiên trên cơ sở các định nghĩa chung về hợp đồng, hợp đồng dân sự, hợp đồng mua bán tài sản, có thể định nghĩa HĐMBHH như sau: “HĐMBHH là sự thỏa thuận của các bên về việc chuyển quyền sở hữu hàng hóa trong đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao hàng hóa và quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền cho bên bán, quyền được nhận hàng hóa và quyền sở hữu hàng hóa”. Bằng sự thỏa thuận giữa các bên, HĐMBHH được lập ra trở thành một công cụ pháp lý quan trọng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
1.1.2 Đặc điểm của Hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.2.1 Hợp đồng mua bán hàng hóa là một hành vi pháp lý được hình thành do sự thỏa thuận thống nhất ý chí giữa hai hoặc nhiều người
Tự do ý chí là một đặc điểm quan trọng của HĐMBHH. Nguyên tắc này xuất hiện từ thế kỷ XVIII và nằm trong hệ thống các quan điểm của nền triết học ánh
sáng khi cho rằng ý chí của con người là tối thượng và tự chủ. Chỉ các hành vi xuất phát từ ý chí của một người mới có hiệu lực ràng buộc đối với người đó. Một người chỉ bị ràng buộc khi người đó muốn như vậy và ràng buộc theo cách mà người đó muốn. Vì vậy ý chí tự nguyện tự do giao kết hợp đồng của mỗi bên sẽ quyết định việc hình thành một thỏa thuận thống nhất. Khi giao kết hợp đồng, mỗi bên đều mong muốn đạt được những lợi ích riêng của mình trong phạm vi pháp luật thừa nhận và việc giao kết đó có thể được thiết lập theo cách thức mà hai bên thỏa thuận về mua bán hàng hóa như: bằng lời nói, văn bản, hoặc hành vi của các bên giao kết. Hành vi pháp lý nói trên (hay nói cách khác là các hợp đồng nói trên) trở thành nguồn chủ yếu làm phát sinh quyền và nghĩa vụ mà các bên đã cam kết phải thực hiện và là một trong các đặc điểm quan trọng của HĐMBHH.
1.1.2.2 Chủ thể của hợp đồng mua bán là các bên tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng.
Để có đủ ý chí để giao kết hợp đồng và năng lực để thực hiện những giao kết của mình với bên kia của hợp đồng nhằm đạt được lợi ích mong muốn, chủ thể hợp đồng phải là thực thể có đủ điều kiện về năng lực hành vi để giao kết hợp đồng. Thực thể đó là cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình…. (điều 24 LTM2005).
1.1.2.3 Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa
Có thể nói hàng hóa là vật có thực được các bên đưa ra trong hợp đồng bán hàng tại thời điểm xác định và có thể đem ra để trao đổi, chuyển nhượng và không bị pháp luật ngăn cấm.
1.1.2.4 Nội dung của hợp đồng là các điều khoản hợp pháp do các bên thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng
Nội dung HĐMBHH là bất kỳ sự thỏa thuận hợp pháp nào của các bên trong hợp đồng. Nội dung chủ yếu của hợp đồng chính là quyền và nghĩa vụ của các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền; còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Ngoài những quyền và nghĩa vụ của các bên, các điều khoản thỏa thuận chủ yếu của Hợp đồng chính là đối tượng hàng hóa và giá cả. Pháp luật của hầu hết các nước
đều không quy định bắt buộc các điều khoản chủ yếu của Hợp đồng. Vì vậy bên cạnh 03 điều khoản nói trên, một số điều khoản khác cũng được các bên thỏa thuận trong hợp đồng như: điều khoản về phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán, địa điểm giao nhận hàng hóa….
1.1.2.5. Hình thức của Hợp đồng mua bán hàng hóa
Tùy theo từng mối hệ giữa các bên tham gia giao kết hợp đồng, tùy theo từng tính chất quan trọng /giá trị của từng đối tượng hợp đồng mà các bên lựa chọn hình thức hợp đồng khác nhau. Thông qua cách thức biểu hiện này, người ta có thể biết được nội dung của hợp đồng đã xác lập. Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng, bởi đó là chứng cứ xác nhận các quan hệ kinh doanh đã và đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác định trách nhiệm khi có vi phạm xảy ra. Hình thức của hợp đồng có thể là lời nói, văn bản hoặc các hành vi cụ thể. Theo đó, hợp đồng có thể được giao kết dưới hình thức một lời thỏa thuận bằng miệng hoặc thông qua các phương tiện liên lạc trực tiếp về sự mua bán, có khi sự thỏa thuận dưới hình thức gián tiếp bởi một văn bản như thư chào hàng và chấp nhận chào hàng, văn bản Fax, Thư điện tử,…. Tuy nhiên dưới bất kỳ hình thức nào thì hình thức của hợp đồng cũng không được trái với quy định của pháp luật về hình thức của hợp đồng. Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch kinh doanh phải được thể hiện bằng hình thức văn bản hoặc phải được công chứng, chứng thực, đăng ký hay xin phép thì các bên phải tuân thủ các quy định này.
1.2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.2.1 Định nghĩa
Ngay khi giao lưu buôn bán phát triển, hoạt động trao đổi, buôn bán hàng hóa không chỉ diễn ra trong phạm vi một nước mà còn lan rộng ra phạm vi khu vực và thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của con người. Để giao kết được HĐMBHH với nước ngoài, thương nhân đóng trụ sở thương mại ở nước này ký kết hợp đồng mua hoặc bán hàng hóa với thương nhân đóng trụ sở thương mại tại nước khác. Chẳng hạn Công ty may 10 có trụ sở tại Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu hàng may mặc cho các công ty của Mỹ có trụ sở tại Mỹ hoặc thậm chí có trụ sở tại Nhật. Những hợp đồng này là HĐMBHH mang tính quốc tế, nói cách khác đó là HĐMBHHQT.