sản hình thành trong tương lai như nhà cửa, công trình xây dựng đang hình thành ở thời điểm mua hoặc chưa được giao tận tay người mua…vẫn chưa được thừa nhận là hàng hóa.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu hàng hóa trong HĐMBHH bao gồm tất cả các động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai. Và các vật gắn liền với đất đai, tuy nhiên, khi các chủ thể tham gia vào quan hệ HĐMBHH cần phải xem hàng hóa mà mình mua hoặc bán là cái gì, nó có thuộc danh mục hàng cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh hoặc hàng kinh doanh có điều kiện hay không? Những hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện như: Vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng và phương tiện kỹ thuật chuyên dùng của các lực lượng vũ trang; Chất ma túy; Một số hóa chất có tính độc hại mạnh; Các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hóa, bảo tàng; Các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục nhân cách; Thuốc lá điếu, sản xuất tại nước ngoài; Các loại pháo; Các loại thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người và gia súc thuốc bảo vệ thực vật và các trang thiết bị, dụng cụ y tế chưa được phép sử dụng tại VN… Những hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh như: Hàng hóa có chứa chất phóng xạ, thuốc bảo vệ thực vật thuộc danh mục hạn chế sử dụng tại VN… Những hàng hóa, dịch vụ thương mại có điều kiện gồm các loại như: Hóa chất độc hại và sản phẩm có hóa chất độc hại; Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh, các loại vắc xin, sinh phẩm, trang thiết bị, dụng cụ y tế[2].
1.4.3. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Pháp luật các nước có những cách khác nhau trong quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán, theo đó các bên phải thỏa thuận để giao kết hợp đồng [30, tr23]. Các nước thuộc hệ thống pháp luật Anh – Mĩ về cơ bản chỉ bắt buộc thỏa thuận về điều khoản đối tượng và giá cả của hợp đồng mua bán; những nội dung khác, nếu các bên không thỏa thuận cụ thể, có thể được viện dẫn tập quán thương mại để xác định. Trong khi đó, theo pháp luật các nước thuộc hệ thống luật Châu Âu lục địa mà Cộng hòa Pháp là một ví dụ điển hình, thông thường hợp đồng mua bán cần phải thỏa thuận rõ về đối tượng, chất lượng và giá cả. Công ước Viên năm 1980
về HĐMBHHQT không quy định HĐMBHH có những nội dung nào... Luật của một quốc gia thành viên Công ước được chọn áp dụng có quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán thì bên phải tuân thủ những quy định đó[34, tr23].
Việc pháp luật quy định nội dung của hợp đồng mua bán, có ý nghĩa hướng các bên tập trung vào thỏa thuận những nội dung quan trọng của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện đồng thời phòng ngừa những tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng, pháp luật không giới hạn các điều khoản mà các bên thỏa thuận với nhau. Pháp luật chỉ quy định nội dung chủ yếu của hợp đồng hoặc các điều khoản mang tính khuyến nghị để định hướng cho các bên trong việc thỏa thuận.
Nội dung của hợp đồng trước hết là những điều khoản mà các bên phải thỏa thuận được với nhau. Điều 402 BLDS cũng chỉ quy định các bên “có thể thỏa thuận”mà không đòi hỏi phải thỏa thuận những nội dung chủ yếu nào. Mặc dù nội dung chủ yếu của HĐMBHH có thể xác định được dựa trên những quy định mang tính “khuyến nghị”, “định hướng” của pháp luật, thói quen và tập quán thương mại, nhưng trong điều kiện nhận thức của nhà kinh doanh còn nhiều hạn chế, thì điều này tiềm ẩn những nguy cơ pháp lý, những tranh chấp trong hoạt động mua bán hàng hóa. Đặc biệt là trong điều kiện nước ta hiện nay. Trên cơ sở các quy định của BLDS và LTM, xuất phát từ tính chất của quan hệ HĐMBHH trong thương mại, có thể thấy những điều khoản quan trọng của HĐMBHH bao gồm: đối tượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm giao nhận hàng.
Mặc dù nội dung của hợp đồng do các bên thỏa thuận, nhưng trong mọi quan hệ hợp đồng nói chung và trong quan hệ mua bán hàng hóa nói riêng, các bên không chỉ chịu sự ràng buộc bởi các điều khoản mà các bên thỏa thuận mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định của pháp luật. Ví dụ, các bên không thỏa thuận trong hợp đồng về điều khoản bồi thường thiệt hại cho nhau khi một bên vi phạm hợp đồng, nhưng bên vi phạm hợp đồng vẫn phải có nghĩa vụ bồi thường nếu việc vi phạm đó gây thiệt hại cho bên đối tác. Như vậy, nội dung của HĐMBHH không chỉ là các điều khoản do các bên thỏa thuận mà còn có thể bao gồm cả những điều
khoản do các bên không thỏa thuận nhưng theo quy định của pháp luật các bên có nghĩa vụ phải thực hiện.
Nội dung của hợp đồng có thể chia thành ba loại điều khoản với những ý nghĩa khác nhau: điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy nghi.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam - 2
- Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Thông Thường (Nội Địa):
- Các Nguyên Tắc Thực Hiện Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa
- Thời Gian Và Địa Điểm, Phương Thức Thực Hiện Hợp Đồng
- Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam - 7
- Người Bán Phải Giao Hàng Đúng Địa Điểm Và Đúng Thời Hạn
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
- Điều khoản chủ yếu: Các điều khoản chủ yếu nêu lên những quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên, làm cơ sở cho việc thực hiện mà nếu thiếu nó thì quan hệ hợp đồng chưa được coi là đã được xác lập.
- Điều khoản thường lệ: Là điều khoản đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Dù các điều khoản này không được ghi vào hợp đồng nhưng các bên mặc nhiên thừa nhận và phải thực hiện đúng như pháp luật đã quy định.
- Điều khoản tùy nghi: Là những điều khoản được đưa vào hợp đồng theo sự thỏa thuận của các bên, căn cứ vào khả năng, nhu cầu của các bên để xác định thêm một số điều khoản khác. Trong khuôn khổ của pháp luật, các bên có quyền lựa chọn và thỏa thuận về những hành vi cụ thể. Điều đó nhằm làm cho nội dung của hợp đồng được rõ ràng, cụ thể, tạo điều kiện cho việc thực hiện hợp đồng nhanh chóng, tránh sự hiểu lầm trong quan hệ hợp đồng.
Nội dung của HĐMBHH cần chứa đựng đầy đủ các nội dung cơ bản như sau.
1.4.3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua
Nghĩa vụ của bên bán
Bên bán phải giao hàng hóa phù hợp với quy định của hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Điều 35 LTM quy định bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận hàng nếu có thỏa thuận khác [Điều 38 LTM].
Nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa được quy định tại Điều 42 LTM. Trường hợp có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua vào thời hạn, tại địa điểm và bằng hình thức đã thỏa thuận.
Một trong các nghĩa vụ của bên bán là phải kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng. Bên bán phải chịu những khiếm khuyết của hàng hóa mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hóa không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán biết hoặc không thể không biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua [Khoản 5 Điều 44 LTM].
Bên bán còn có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hóa. Theo đó, bên bán phải bảo đảm: (1) quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh chấp bởi bên thứ ba; (2) hàng hóa đó phải hợp pháp; (3) việc chuyển giao hàng hóa là hợp pháp.
Ngoài ra, bên bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ [Điều 46 LTM]. Trường hợp hàng hóa mua bán có bảo hành thì bên bán phải chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn đã thỏa thuận và phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác [Điều 49 LTM].
Quyền của bên bán
Bên bán có quyền nhận tiền bán hàng theo thỏa thuận trong HĐMBHH. Nếu bên bán chậm nhận được hoặc không nhận được tiền bán hàng do lỗi của bên mua thì bên bán có quyền áp dụng các biện pháp do LTM quy định để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Điều 306 LTM quy định bên bán có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Ngoài ra bên bán có thể áp dụng các hình thức chế tài theo quy định của LTM.
1.4.3.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua
Nghĩa vụ của bên mua
Điều 50, Điều 55 LTM quy định bên mua có nghĩa vụ:
- Thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận.
- Tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật.
- Thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ liên quan đến hàng hóa; bên mua vẫn phải thanh toán tiền hàng trong trường hợp hàng hóa mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua, trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra.
Ngoài ra, bên mua mất quyền sở hữu đối với hàng hóa, quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa nếu bên mua không thông báo ngay cho bên bán về khiếu nại của bên thứ ba đối với hàng hóa được giao sau khi bên mua đã biết hoặc phải biết về khiếu nại đó, trừ trường hợp bên bán biết hoặc phải biết về khiếu nại của bên thứ ba [Điều 45, Điều 46 - Khoản 1 LTM].
Quyền của bên mua
Bên mua có quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng trong các trường hợp: (1) Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng việc thanh toán; (2) Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết;
(3) Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục được sự không phù hợp đó.
1.4.3.3. Đối tượng của hợp đồng
Trong mua bán hàng hóa, đối tượng của hợp đồng là một hàng hóa nhất định. Đây là điều khoản cơ bản của một HĐMBHH, mà khi thiếu nó thì hợp đồng này không thể hình thành được do người ta không thể hình dung được các bên tham gia hợp đồng nhằm mục đích gì, trao đổi cái gì. Đối tượng của HĐMBHH được xác định thông qua tên gọi của hàng hóa. Trong HĐMBHH, các bên có thể ghi rõ tên hàng bằng tên thông thường tên thương mại... để tránh sự hiểu sai lệch về đối tượng của hợp đồng.
1.4.3.4. Số lượng hàng hóa
Điều khoản về số lượng hàng hóa xác định về mặt lượng đối với đối tượng của hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận và ghi trong hợp đồng về một số lượng hàng hóa cụ thể hoặc số lượng được xác định bằng đơn vị đo lường theo tập quán thương mại như chiếc, bộ, tá, mét, mét vuông, mét khối hay bằng một đơn vị nào khác tùy theo tính chất của hàng hóa.
1.4.3.5. Chất lượng hàng hóa
Chất lượng hàng hoá là vấn đề quan tâm của các bên khi ký kết HĐMBHH. Hàng đúng chất lượng phải đảm bảo khả năng sử dụng, bảo đảm đúng phẩm chất, bao bì đóng gói, quy cách, chủng loại của sản phẩm theo tiêu chuẩn hoặc theo sự thoả thuận của các bên. Chất lượng hàng hóa giúp xác định chính xác đối tượng của hợp đồng, cái mà người mua biết tường tận những yêu cầu được tính năng, tác dụng, quy cách, kích thước, công suất, hiệu quả…. Xác định cụ thể chất lượng của sản phẩm thường cũng là cơ sở để xác định giá cả một cách tốt nhất. Trách nhiệm của các bên thường khác nhau tương ứng với mỗi phương pháp xác định chất lượng được thỏa thuận. Thông thường có các biện pháp xác định chất lượng như dựa vào mẫu hàng, dựa vào các tiêu chuẩn, dựa vào mô tả tỉ mỉ, dựa vào nhãn hiệu hàng hóa hoặc điều kiện kỹ thuật.
Để đảm bảo mục đích của hợp đồng được thực hiện một cách tốt nhất, nếu các bên có thoả thuận để bên mua hoặc đại diện của bên mua tiến hành kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng thì bên bán phải đảm bảo cho bên mua hoặc đại diện cho bên mua có điều kiện tiến hành việc kiểm tra. Khi đó, bên mua hoặc đại diện của bên mua trong trường hợp này phải kiểm tra hàng hoá trong một thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép; trường hợp hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hoá thì việc kiểm tra hàng hoá có thể được hoãn lại cho tới khi hàng hoá được chuyển tới địa điểm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Trong trường hợp bên mua hoặc đại diện bên mua không thực hiện việc kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng theo thoả thuận thì bên bán có quyền giao hàng theo hợp đồng.
Bên bán không phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyến của hàng hoá mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã biết hoặc phải biết nhưng không thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi kiểm tra hàng hoá. Nhưng bên bán phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá mà bên mua hoặc đại diện bên mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hoá không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán đã biết hoặc phải biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua.
1.4.3.6. Giá cả hàng hóa
Các bên có quyền thỏa thuận giá cả và phải được ghi cụ thể trong hợp đồng hoặc nếu không ghi cụ thể thì phải xác định rõ phương hướng xác định giá, vì đây là điều khoản quan trọng trong các cuộc thương lượng đi đến ký kết hợp đồng. Để mang lại lợi ích cho cả hai bên, các bên cũng có thể thỏa thuận với nhau lựa chọn hình thức giảm giá phù hợp ghi trong hợp đồng như giảm giá, giao hàng sớm, do mua số lượng nhiều và quy định rõ mức giá giảm.
1.4.3.7. Phương thức thanh toán
Phương thức thanh toán là cách thức mà bên mua và bên bán thỏa thuận, theo đó bên mua phải thanh toán cho bên bán tiền hàng đã mua theo một phương thức nhất định. Có nhiều phương thức thanh toán nhưng việc lựa chọn phương thức nào cũng xuất phát từ nhu cầu của người bán là thu tiền nhanh, đầy đủ và yêu cầu của người mua là nhận được hàng đúng số lượng, chất lượng, thời hạn như đã thỏa thuận và không có rủi ro trong thanh toán. Việc chọn phương thức thanh toán trong hợp đồng hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên khi tham gia quan hệ HĐMBHH. Sự lựa chọn phương thức thanh toán cũng căn cứ vào mức độ an toàn của phương thức thanh toán và phí tổn cho việc thanh toán.
1.4.3.8. Giao nhận hàng hóa
Bên bán phải giao hàng hoá phù hợp với quy định của hợp đồng; trong các HĐMBHH, các bên thường có thoả thuận với nhau về điều kiện kèm theo việc giao hàng thoả thuận về điều kiện giao nhận hàng hoá nhằm mục đích xác định trách nhiệm và chi phí giao hàng của các bên như đối với vận tải, bảo hiểm hàng hoá, thủ
tục hải quan, thuế xuất nhập khẩu, gánh chịu rủi ro… Ngoài ra, trong mua bán hàng hoá việc giao hàng còn liên quan đến việc giao nhận cả các chứng từ liên quan đến hàng hoá. Nếu các bên không có sự thoả thuận hoặc sự thoả thuận không cụ thể, thì bên bán phải có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan kèm theo.
Các bên có thể thoả thuận về địa điểm, thời hạn và phương thức giao hàng tuỳ theo tính chất của các hàng hoá trong hợp đồng khi đã thoả thuận về địa điểm giao hàng thì các bên phải tôn trọng thoả thuận và phải thực hiện đúng thoả thuận đó. Bên bán phải có nghĩa vụ giao hàng, bên mua phải có nghĩa vụ nhận hàng đúng địa điểm đã thoả thuận.
Trong trường hợp không thoả thuận về địa điểm giao hàng thì địa điểm giao hàng được xác định như sau: Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi có hàng hoá đó. Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vấn đề chuyển hàng hoá thì bên ngoài có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên. Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hoá, nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó. Vì giao hàng là một nghĩa vụ chủ yếu của bên bán, nên bên bán phải chịu trách nhiệm về việc hàng không phù hợp với thoả thuận trong hợp đồng. Hàng hoá được coi là không phù hợp hợp đồng khi hàng hoá đó thuộc một trong những trường hợp tại Khoản 1 Điều 39 LTM 2005. Không phù hợp với mục đích sử dụng của hàng hoá cùng chủng loại vẫn thường được sử dụng; Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên bán biết hoặc bên bán phải biết vào thời gian giao kết hợp đồng; Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng mà bên bán đã giao cho bên mua; Không được bảo quản. đóng gói theo cách thức thông thường với loại hàng hoá đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hoá trong trường hợp không có cách thức bảo quản thông thường. Trong trường hợp không phù hợp với thoả thuận trong hợp đồng, thì bên bán có quyền từ chối nhận hàng, người bán phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về