Các Điều Ước Quốc Tế Về Giao Dịch Thương Mại, Hợp Đồng


mại số 04/2006/TT-BTM ngày 06/04/2006 hướng dẫn một số nội dung thi hành nghị định 12/2006/NĐ-CP…. và một số luật chuyên ngành khác có liên quan như Luật giao dịch thương mại điện tử 2006, ra đời đã khắc phục hạn chế cơ bản nêu trên và quy định những vấn đề chung nhất về hiệu lực của hợp đồng, các hình thức của HĐMBHHQT.

1.6.2 Các Điều ước quốc tế về giao dịch thương mại, hợp đồng

Điều ước quốc tế về thương mại là những thỏa thuận bằng văn bản giữa các quốc gia có tính nguyên tắc pháp lý chung, quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại giữa các quốc gia trong phạm vi quốc tế. Dưới góc độ là nguồn luật điều chỉnh về HĐMBHHQT, Điều ước quốc tế thể hiện trên những nguyên tắc pháp lý chung làm cơ sở cho hoạt động thương mại, đặc biệt trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế. Những điều ước này có thể song phương hoặc đa phương, điều đó tùy thuộc vào sự ràng buộc lẫn nhau và sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.

Đối với điều ước quốc tế song phương thường thể hiện việc ký kết các hiệp định thương mại giữa hai quốc gia với nhau hay nhiều quốc gia với nhau để tạo ra một khuôn khổ pháp luật, một hàng lang pháp lý chặt chẽ cho việc buôn bán hàng hóa giữa các quốc gia này với nhau. Việt Nam đã ký nhiều hiệp định với nước ngoài điều chỉnh vấn đề về mua bán hàng hóa quốc tế [12] như: Hiệp định về việc mua bán hàng hóa ở vùng biên giới giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ký tại Bắc Kinh ngày 19 tháng 10 năm 1998. Việt nam cũng đã ký rất nhiều hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, thương mại với các nước trong đó xác định các nguyên tắc về tính hợp pháp của một hợp đồng có yếu tố nước ngoài hoặc xác định yếu tố năng lực chủ thể của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài như: hiệp định ký với Liên Xô, Cu Ba, Ba Lan, Lào, Campuchia, Bungari, Hungari, Slôvakia…;Việt Nam ký hiệp định thương mại khung với EU về hạn ngạch xuất hàng may mặc vào thị trường khối này để quy định những nguyên tắc pháp lý chung, những chế độ ưu đãi mà các bên ký kết giành cho nhau khi tham gia hợp đồng mua bán quốc tế.


Bên cạnh điều ước quốc tế song phương còn có các Điều ước quốc tế đa phương trực tiếp điều chỉnh quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của bên bán và bên mua trong HĐMBHHQT. Ví dụ, Công ước Liên hợp quốc về mua bán hàng hóa quốc tế được ký tại Viên năm 1980 quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc xác lập và giao kết hợp đồng, các hình thức giao kết hợp đồng hợp pháp…. Các bên có thể áp dụng CISG để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ HĐMBHHQT trong trường hợp hợp đồng được ký kết không quy định về luật áp dụng giải quyết tranh chấp. Công ước này là nguồn luật điều chỉnh đương nhiên của HĐMBHHQT được ký kết giữa hai thương nhân của các nước đã phê chuẩn hoặc tham gia Công ước. Điều chỉnh về HĐMBHH, Công ước La Hay 1964 về mua bán quốc tế những động sản hữu hình cũng là một nguồn luật quan trọng khi quy định những vấn đề HĐMBHHQT. Công ước Rome 1980, luật áp dụng điều chỉnh nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng…. Việt nam chưa tham gia vào các Công ước này.

Các hiệp định thương mại của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) như Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 với mục đích bãi bỏ hàng rào phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa nhằm hạn chế số lượng như giấy phép, hạn ngạch, đặc biệt đối với hàng nông sản. WTO đã có Hiệp định về hàng dệt và may mặc. Hạn ngạch nhập khẩu đã được xóa bỏ hoàn toàn sau khi hiệp định này hết hiệu lực vào ngày 31/12/2004. Đây là một thuận lợi lớn cho các DN dệt may VN khi xuất sang các nước thành viên WTO, đặc biệt là Mỹ và EU. Tuy nhiên, khi đã trở thành thành viên của WTO, chúng ta không được phép quên rằng chính VN cũng sẽ là nước nhập khẩu loại hàng này từ các nước thành viên WTO khác mà họ có tiềm năng không kém hoặc hơn ta trong lĩnh vực này. Các hiệp định khác của WTO [29] như: Hiệp định chống bán phá giá (thực thi Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994). Đây là một hiệp định mà trong giai đoạn hiện nay các Doanh nghiệp xuất khẩu và Doanh nghiệp sản xuất, các Hiệp hội ngành hàng của VN cần đặc biệt lưu tâm, đề ra các quy định cơ bản về phá giá, xác định quyền của các nước thành viên được đánh thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu phá giá; Hiệp định về hàng rào kỹ thuật cho phép các nước thành viên có quyền áp dụng các biện


pháp cần thiết để bảo vệ sức khoẻ, môi sinh, môi trường. Dù hiệp định đã đưa ra những nguyên tắc và tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm tránh lạm dụng những biện pháp này để tạo ra những rào cản thương mại (phi thuế) bất hợp lý, nhưng trên thực tế không ít nước đã đặt ra những rào cản kỹ thuật chưa thực sự công bằng và minh bạch nhằm hạn chế NK đối với một số hàng hóa nhất định trong bối cảnh mà họ cho là cần thiết. Các nhà sản xuất và XK hàng nông sản, hải sản, thực phẩm của VN cần hết sức lưu ý về những biện pháp loại này khi xuất khẩu hàng hóa nước mình sang một thị trường cụ thể nào đó. Nếu không, dễ rơi vào tình trạng "tiền mất, tật mang"; Hiệp định về các biện pháp tự vệ thiết lập các quy tắc áp dụng biện pháp tự vệ trong trường hợp cần thiết với mục đích ngăn ngừa thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước và nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành sản xuất này. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới việc áp dụng các biện pháp tự vệ là việc nhập khẩu quá mức một mặt hàng nào đó, gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến ngành sản xuất nội địa đối với sản phẩm tương tự hoặc sản phẩm cạnh tranh trực tiếp. Hiệp định về chống trợ cấp đề ra các biện pháp bảo hộ hợp pháp đối với hàng hóa sản xuất trong nước khi có sự cạnh tranh không lành mạnh (unfair competition) của hàng hóa nhập khẩu mà những hàng hóa này được sản xuất có sự trợ cấp của chính phủ xuất khẩu. Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại quy định về những biện pháp thương mại bị cấm tuy rằng không định ra các tiêu chí cụ thể đối với một biện pháp bị cấm. Dù vậy, trong hiệp định có đưa ra một danh mục mang tính tham khảo (đúng hơn là ví dụ) những biện pháp bị cấm với một số hướng dẫn chung như tỷ lệ nội địa hóa, tác động tới tiêu dùng trong nước, tới cán cân thương mại... Hiệp định về nông nghiệp quy định điều kiện ngày càng thuận lợi đối với việc mua bán hàng hóa nông sản để ổn định và đảm bảo sự an toàn của nền nông nghiệp của các nước xuất siêu cũng như các nước nhập siêu hàng nông sản.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

1.6.3. Tập quán thương mại

Tập quán thương mại quốc tế là những thói quen thương mại được nhiều quốc gia công nhận và áp dụng một cách rộng rãi ở nhiều nơi, nhiều khu vực khác nhau trên

Vấn đề hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam - 6


phạm vi quốc tế. Tập quán quốc tế có thể chia làm ba loại: Các tập quán thương mại có tính chất nguyên tắc; các tập quan thương mại quốc tế chung và các tập quán thương mại khu vực.

Tập quán thương mại quốc tế chỉ áp dụng tập quán thương mại quốc tế khi đáp ứng được các yêu cầu sau: là một thói quen phổ biến, được nhiều nước áp dụng thường xuyên, liên tục, được ghi chép lại, được nhiều thương nhân áp dụng, được nhiều Tòa án, Trọng tài áp dụng; là thói quen duy nhất; là thói quen có nội dung rõ ràng, người ta có thể dựa vào đó để xác định quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Am hiểu tập quán thương mại quốc tế, thì sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng và được bảo vệ khi có sự vi phạm.

Các tập quán thương mại liên quan đến HĐMBHHQT ví dụ như: các điều kiện thương mại quốc tế do Phòng thương mại quốc tế [29] tập hợp và biên soạn ( gọi tắt là Incoterms 1936, 1953, 1967, 1980, 1990, 2000), trong đó có quy định các điều kiện thương mại như: (CIF, FOB, CFR, DAF, DES…) được nhiều nước trên thế giới thừa nhận và áp dụng; Quy tắc UCP 500, 600 (quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ)

Đa số pháp luật các nước đều cho phép áp dụng tập quán thương mại quốc tế để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến HĐMBHHQT. Tuy nhiên tập quán thương mại quốc tế trở thành nguồn luật điều chỉnh và được áp dụng khi các bên có thỏa thuận trong HĐMBHHQT hoặc khi các điều ước quốc tế liên quan có quy định. Tuy nhiên tập quán thương mại quốc tế còn được áp dụng trong trường hợp hợp đồng không quy định, luật áp dụng cho hợp đồng cũng không điều chỉnh hoặc điều chỉnh không đầy đủ mối quan hệ (hay tranh chấp) pháp sinh hợp đồng giữa hai bên và Tòa án, Trọng tài phải áp dụng tập quán thương mại quốc tế về mối quan hệ này để giải quyết.

1.6.4.Tiền lệ pháp về dân sự, thương mại

Trong quan hệ thương mại quốc tế, nhiều khi một hợp đồng lại liên quan đến pháp luật của nhiều nước khác nhau. Chẳng hạn: một công ty của Anh ký kết hợp đồng mua bán với một công ty của Đức. Hợp đồng này được thiết lập ở Pháp, hàng hoá được xếp xuống tàu tại một cảng của Achentina để vận chuyển đến một cảng


của Đan Mạch trên một con tàu của Hà Lan. Nếu tranh chấp phát sinh giữa các bên trong hợp đồng này, rõ ràng việc chọn luật để giải quyết tranh chấp nhiều khi rất phức tạp, nhất là khi xảy ra tình trạng xung đột pháp luật trong thương mại quốc sẽ làm trầm trọng thêm các quan hệ. Thông thường, người ta có quan niệm rằng án lệ là một hình thức pháp luật đặc thù của các nước thuộc hệ thống Anh, Mỹ. Tuy nhiên, tại các nước vốn có truyền thống dân luật như Pháp, Đức, Nhật cũng đã xem các bản án của toà phúc thẩm có giá trị như một nguồn luật qua việc công bố các bản án của toà cấp phúc thẩm để làm tài liệu cho thẩm phán các cấp tham chiếu khi xét xử các vụ việc tương tự.

Trong lĩnh vực thương mại quốc tế, từ lâu án lệ luôn được sử dụng như là một cách thức để toà án, trọng tài thương mại dựa vào để giải quyết các vụ tranh chấp thương mại. Cũng cần lưu ý rằng mức độ thừa nhận và vận dụng án lệ là không giống nhau ở các quốc gia và các hệ thống tài phán. Chẳng hạn, trong tài phán quốc tế về thương mại, WTO không công nhận nguyên tắc án lệ; tuy nhiên trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế, các ban hội thẩm thường dựa rất nhiều vào việc tham khảo cách thức giải quyết của các ban hội thẩm trước đó qua những vụ việc tương tự. Điểm khác là, các bản án xét xử này chỉ có giá trị tham khảo chứ không trở thành các quy định có tính bắt buộc như ở hệ thống các quốc gia theo thông luật.

Ở Việt nam trước nay không xem án lệ là một nguồn luật. Thẩm phán khi xét xử vụ việc chỉ dựa vào các quy định trong văn bản pháp luật, không đặt ra những tiền lệ để áp dụng sau này. Điều 3 BLDS 2005 có đề cập đến khả năng áp dụng tập quán và áp dụng pháp luật tương tự nhưng không đề cập đến án lệ như là hình thức vận dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp tại toà. Việc không thừa nhận án lệ trong các tranh chấp thương mại ở VN có thể làm tăng thêm khó khăn cho các chủ thể tố tụng như các thẩm phán, luật sư và cả các bên đương sự.


Kết luận chương 1

Trong Chương I, tác giả luận văn đã nghiên cứu một cách khái quát và hệ thống các khái niệm về HĐMBHH nói chung trong đó có HĐMBHH quốc tế nói riêng. Chương này cũng nêu ra các các định nghĩa liên quan đến HĐMBHHQT; các đặc điểm đặc thù của HĐMBHHQT so với HĐMBHH thông thường; xung đột pháp luật và nguồn luật về hiệu lực của HĐMBHHQT. Tác giả nghiên cứu và chỉ ra vai trò của HĐMBHHQT nói chung và vai trò hiệu lực của HĐMBHHQT nói riêng trong thực tiễn kinh doanh thương mại quốc tế. Việc xác định chính xác tính hợp pháp và hiệu lực của HĐMBHHQT sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc cho các bên thực hiện cam kết của hợp đồng đồng thời là căn cứ quan trọng để các cơ quan áp dụng pháp luật xử lý khi có tranh chấp hợp đồng. Hơn nữa, cần xác định hiệu lực của hợp đồng để tránh các trường hợp Hợp đồng giao kết bị vô hiệu, điều này đã góp phần giảm bớt các chi phí về thời gian và tiền bạc. Tóm lại việc xác định hiệu lực của HĐMBHHQT không chỉ mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho các chủ thể kinh doanh mà còn góp phần hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình giao kết hợp đồng và thúc đẩy giao lưu thương mại quốc tế phát triển.


CHƯƠNG 2

CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TRONG TƯƠNG QUAN SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ


2.1. Quy định của pháp luật về các yếu tố xác định hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

2.1.1. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có đủ năng lực dân sự để ký kết hợp đồng

Theo pháp luật Việt Nam, chủ thể của HĐMBHHQT phải hợp pháp, các điều kiện về tư cách chủ thể được quy định trong Bộ luật dân sự sửa đổi 2005 đồng thời quy định tại các văn bản luật chuyên ngành như Luật thương mại Việt Nam 2005 và các băn bản hướng dẫn thi hành. Chủ thể tham gia giao kết HĐMBHHQT theo Luật Thương mại 2005 là thương nhân. Thương nhân có thể là cá nhân hoặc pháp nhân Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm” (Điều 6, LTM VN 2005) [4, tr. 3]

Thứ nhất, để xác định tư cách chủ thể thương nhân là cá nhân thì trước hết cá nhân đó phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định chung tại Bộ luật dân sự Việt nam 2005 để hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người thành niên từ đủ 18 tuổi trở lên, có quyền độc lập quyết định việc giao kết hợp đồng và thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Những trường hợp thương nhân mất năng lực giao kết, hoặc hạn chế năng lực giao kết hợp đồng khi giao kết hợp đồng sẽ làm cho Hợp đồng vô hiệu trừ trường hợp hợp đồng được ký bởi đại diện hợp pháp của những người này theo quy định của pháp luật. Cụ thể như sau: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành


vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định. Người mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng giao kết hợp đồng và khi giao kết với người mất năng lực hành vi dân sự, hợp đồng đó bị vô hiệu. Hợp đồng ký kết với người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện“ . (Điều 22 BLDS 2005) ; „„Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là những người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến không có khả năng hoặc hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật‟‟ (Điều 23, BLDS 2005) [1, tr.5]

Trường hợp xác định tư cách chủ thể của thương nhân nước ngoài phải dựa trên cơ sở quy định chung về tư cách chủ thể người nước ngoài do Bộ luật dân sự VN 2005 quy định, cụ thể như sau: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo PL của nước mà người đó là công dân” ( Điều 765 BLDS 2005). Ngoại lệ của nguyên tắc này là“Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại VN thì NLHVDS của người nước ngoài được xác định theo PL VN”(điểm i, khoản 2 Đ762 BLDS 2005). Đối với trường hợp một người có 2 quốc tịch, Điều 760 BLDS 2005 quy định “trong trường hợp Bộ Luật này hoặc các văn bản khác của CHXHCN VN dẫn chiếu đến việc áp dụng PL của nước mà người nước ngoài là công dân thì PL áp dụng đối với người nước ngoài có 2 hay nhiều quốc tịch nước ngoài là PL của nước mà người đó có quốc tịch và cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự; nếu người đó không cư trú tại một trong các nước mà người đó có quốc tịch thì áp dụng PL của nước mà người đó có quốc tịch và có quan hệ gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân” [1, tr.171]. Như vậy theo pháp luật Việt Nam, năng lực hành vi ký kết HĐ của các bên chủ thể được xác định theo Luật quốc tịch của họ hoặc theo luật nơi thực hiện hành vi.

Thứ hai, xác định tư cách chủ thể của thương nhân là pháp nhân phải được thành lập hợp pháp và có đăng ký kinh doanh, Đ i ề u 8 4 BLDS 2005 quy định các điều kiện là một Pháp nhân khi một tổ chức có đủ các điều kiện sau đây:

“1. Được thành lập hợp pháp;

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 10/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí