những kẻ đầy tham vọng. Hơn thế nữa nhân vật ông Ngư được giới thiệu như một người học cao hiểu rộng:
“Kinh luân đã sẵn trong tay Thung dung dưới thế vui say trong trời
Thuyền nan một chiếc ở đời
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang”
Ngoài ra, nhân vật ông Quán còn có tài năng am hiểu văn chương, hiểu biết lý lẽ, lịch sử để nhận thức đúng sai. Trong mỗi câu nói của mình, ông Quán đều tỏ ra là người hiểu sâu rộng, có sức thuyết phục. Mỗi lời thơ của ông đều vận dụng những điển tích, điển cố để minh chứng cho quan điểm của mình. Ông viện vào việc Khổng Tử lận đận, gian lao trong việc truyền đạo Nho, việc Nhan Tử chết sớm dở dang, việc Gia Cát Lượng có tài mưu lược lớn giúp Lưu Bị mà sự nghiệp không thành, việc Đổng Trọng Thư có tài đức hơn người mà bị dồn vào thế bí…để minh chứng cho sự cảm thông, thương yêu của ông đối với người có tài cao chí cả, muốn giúp đời cứu dân mà gặp phải những rủi ro bất hạnh nên nguyện vọng của họ không thực hiện được. Ông nhắc lại việc Kiệt, Trụ mê dâm “để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang”; U, Lệ đa đoan “khiến dân luống chịu lầm than muôn phần”, Ngũ bá phân vân làm “chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn”; Thúc quý phân băng khiến “sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân” để lên án thói hư của những vua chúa, mê đắm tửu sắc, không lo cho dân. Quả là mỗi lời nói của ông Quán đều có những ý nghĩa sâu xa mà không phải ai cũng có được. Sự xuất chúng của ông Quán được đánh giá qua nhận định của Vương Tử Trực:
Trực rằng: “Chùa rách phật vàng Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân
Không những vậy, tác giả Nguyễn Đình Chiểu còn cho thấy các nhân vật chính diện của ông cho dù xuất thân cao sang hay hèn kém, cho dù có tên tuổi hay vô danh thì không những có nền học vấn uyên thâm mà còn biết sử dụng học vấn vào đúng chỗ, đúng lúc để làm việc tốt, việc nghĩa. Vương Tử Trực học
thông, biết rộng để sau này thấy rằng việc Võ Thể Loan xe duyên mình với con gái hắn là trái với đạo thánh hiền. Hớn Minh, Vân Tiên vận dụng trí tuệ và sức mạnh của mình để đánh thắng Cốt Đột. Cốt Đột là một tướng giặc hung hãn, có khả năng “biến hô yêu tà”, chúng không dễ để đối phó. Thế nhưng nhờ tài năng và mưu lược của mình, Vân Tiên đã:
Vội vàng trở ngựa lui ra Truyền thoa máu chó đều thoa ngọn cờ
Ba quân gươm giáo đều dơ Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới - 6
- Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới - 7
- Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới - 8
- Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới - 10
- Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới - 11
- Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới - 12
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Bằng trí tuệ của mình, những anh hùng như Hớn Minh, Vân Tiên đã chiến thắng Cốt Đột, giải nguy cho đất nước. Ông Quán, ông Ngư thì lại dùng “tài kinh luân” của mình để răn dạy người đời. Có thể thấy, các nhân vật nam chính diện trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu nhờ học cao hiểu rộng mà hành động và ứng xử cũng hơn người. Khả năng vượt trội về trí tuệ của nhân vật chính diện càng được nhấn mạnh hơn khi tác giả dụng công xây dựng những nhân vật phản diện âm mưu ghen ghét họ vì chính trí tuệ và tài năng đó. Những nhân vật trí thức phản diện cũng có nhiều trong sáng tác của Đồ Chiều. Bọn Trịnh Hâm, Bùi Kiệm là những kẻ đã đỗ cử nhân nhưng một kẻ thì thù oán vì văn chương kém người nên Vân Tiên đã mù nhưng hắn vẫn ra tay hại người, một kẻ thì “máu dê” không tôn trọng cả vợ bạn. Trong truyện, Trịnh Hâm là một kẻ xảo trá, bất nghĩa với chính bạn đồng môn của mình. Về trí tuệ thì bản chất bất tài, vô dụng đã được Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh ngay từ đầu khi nói về nhân vật này:
Một người ở quận Phan Dương, Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn
Lời lẽ của Nguyễn Đình Chiểu khi viết về Trịnh Hâm cho ta thấy là ngay từ đầu tác giả đã không đánh giá cao về tài năng và trí tuệ của nhân vật. Ông gây dựng cho nhân vật những phẩm chất thấp kém, tài năng cũng chỉ là bậc tầm thường. Chính vì sự hạn hẹp, yếu kém trong tài năng như vậy nên cũng yếu kém về nhân đức. Đây là cách giải thích của Nguyễn Đình Chiểu về nguyên do Trịnh
Hâm làm điều “bất nghĩa” với Vân Tiên. Chung quy cũng là sự đố kỵ, ghen ghét tài năng của Vân Tiên. Trong khoa thi, tài năng của hắn cũng chỉ đậu được hàng cử nhân:
Hâm rằng: Tử Trực đậu cao Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân
Dù cũng là hàng ngũ nho sinh thế nhưng trái ngược với những nhân vật chính diện, Trịnh Hâm dùng tài văn chương “tầm thường” của mình để làm điều bất nghĩa, hèn hạ. Động cơ thủ ác của hắn vô cùng hèn hạ, dù không quen biết, thì hằn nhưng vì thấy Vân Tiên tài cao nên hắn nảy sinh sự ganh ghét. Cũng thuộc trong những nhân vật phản diện còn có nhân vật Bùi Kiệm. Y cũng là nho sinh, học sách vào kinh thi cử. Bùi Kiệm tuy cùng được miêu tả là nhân vật phản diện nhưng hắn không mượn sách Thánh hiền đề làm điều dã tâm như Trịnh Hâm. Bùi Kiệm cũng đọc sách nhưng cái chân nho trong y biến thành quan điểm thực dụng. Bùi Kiệm đọc sách nhưng lại lợi dụng và phê phán sách Thánh hiền để bảo vệ quan điểm sống hưởng thụ của mình:
Kiệm rằng: đã biết sử kinh Sao không soi xét để mình ngồi không
Hắn cũng thuộc làu làu kinh sử nhưng lại dùng những lời lẽ ấy để đi ngược lại với đạo lý nho giáo. Trong quan niệm nho giáo thì việc tôn trọng đạo lý để tu thân là việc vô cùng quan trọng. Điều đó cũng yêu cầu nam nhi, bậc kẻ sỹ phải sống hà khắc theo tư tưởng tam cương, ngũ thường và lấy con đường chính danh để tu thân. Chịu ảnh hưởng bởi quan niệm hà khắc đó, nam giới phần lớn là phải sống theo chủ nghĩa khắc kỷ mới được cả xã hội công nhận và xem trọng. Ngược lại, nếu đi ngược lại lễ giáo phong kiến, lợi dụng nho giáo cho cá nhân thì đều là những kẻ đáng lên án. Ở đây, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã định hướng rất rõ ràng về hai kiểu nhân vật đạo đức: chính diện và phản diện. Nhóm những nhân vật chính diện có trí tuệ hơn người và luôn hành động dưới sự dẫn dắt của tôn chỉ nho giáo để trở thành những nhân vật lý tưởng. Còn nhóm những nhân
vật phản diện có trí tuệ kém cỏi, thậm chí là tầm thường, lẽ sống của họ đi ngược lại so với những gì họ được học trong trường lớp.
2.3. Tinh thần trọng nghĩa khinh tài
Một trong những cách cư xử mà nho giáo luôn đề cao trong ứng xử xã hội của hai giới nam và nữ, đó là tinh thần trọng nghĩa khinh tài. Ngay từ chủ đề, đề tài của tác phẩm Lục Vân Tiên, ta có thể thấy được là đây không phải là tác phẩm viết về tình yêu, mà màu sắc chủ đạo của nó là tinh thần đạo lý, nhân nghĩa trên quan điểm nhân dân. Trong giới hạn nghiên cứu về nam giới của đề tài này, bên cạnh việc khảo sát về vẻ đẹp lý sức mạnh thể chất, vẻ đẹp trí tuệ, chúng tôi tiếp tục tiến hành khảo sát về biểu hiện về tinh thần trọng nghĩa, khinh tài của nhân vật nam giới để làm nổi bật vẻ đẹp lý tưởng của nhân vật nam trong văn học giai đoạn này. Về nhân nghĩa trong quan điểm nho giáo, nghĩa là điều nên nói, điều nên làm “nói điều gì đó, làm việc gì đó thấy thảnh thơi, thoải mái trong lương tâm thì điều nói đó, việc làm đó là điều nghĩa, việc nghĩa. Ngược lại, nếu có điều gì đó không nói, việc gì đó không làm thì vốn bản thân nó là điều bất nghĩa, phi nghĩa” [34, tr. 22]. Khổng Tử khi nói về đạo làm người đã đúc kết ba đạo lý quan trọng nhất tạo thành nền tảng cho hệ thống luân lý, đó là nhân, lễ, nghĩa. nghĩa của Khổng Tử đó là cái thích đáng hay cái đạo lý. Khổng Tử còn cho rằng nghĩa là những phẩm chất thuộc về người quân tử còn lợi là thuộc về kẻ tiểu nhân: “Bậc quân tử tin tưởng về việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rè về việc lợi” (Luận ngữ, Lý nhân). Do vậy, người quân tử phải hành động vì nghĩa “người quân tử dùng nghĩa lý làm căn bản, dùng lễ tiết để thực hành, dùng khiêm tốn để tỏ lộ ra ngoài, dùng thành tín để làm nên công việc. Người nào được như thế thật là người quân tử”. (Luận ngữ, Linh công). Mặt khác, Khổng Tử còn trọng dũng, gắn liền dũng với nghĩa: “Tử Lộ hỏi rằng: Người quân tử có chuộng dũng không?. Khổng Tử đáp: “Người quân tử lấy nghĩa là trên hết. Người quân tử có dũng mà không có nghĩa thì làm loạn, kẻ tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa thì là trộm cướp” (Luận ngữ, Dương hóa). Đổng Trọng Thư cũng cho rằng nghĩa
là phạm trù riêng biệt, nó khác với các phạm trù khác như lợi, nhân, trí, tín...Theo ông thì nghĩa là để “nuôi cái tâm” – tinh thần, cao cả, lẽ phải.
Trong mối quan hệ giữa người với người, nho giáo còn chú trọng chữ nhân và chữ nghĩa. Nhân nghĩa là người, con người và là nhân ái, nhân đức là bản tính của con người. Theo nghĩa hẹp là một phẩm chất đạo đức cụ thể, cơ bản và nền tảng của con người. Theo nghĩa rộng, nhân bao gồm mọi đức của con người như lễ, nghĩa, trí, tín, trung…Khổng Tử luôn coi chữ nhân là đạo đức căn bản của con người cả về xử thế lẫn tu thân, là trung tâm để chi phối các chuẩn mực đạo đức khác của con người. Khổng Tử nói: “Nhân vừa là tu thân vừa là nhân ái. Nhân là trung tâm của đạo đức từ đó mà phát ra các đức khác và các đức khác quy tụ về nó”. Và Khổng Tử cũng cho rằng “Nhân là lòng yêu thương người. Nhân là tinh thần của lễ nhạc và chính trị. Khi đánh giá vai trò của nhân trong nho giáo cho rằng đó là phẩm chất cao nhất của con người”[33, tr. 114].
Theo Khổng Tử “Nhân là cái gốc đạo đức của con người, là đạo làm người”. Tuy nhiên, đạo làm người của Nguyễn Đình Chiểu lại thật gần gũi, phù hợp với nhân dân. Cũng là chữ nhân nhưng chữ nhân của Nguyễn Đình Chiểu gần gũi mà thiêng liêng hơn: biết sống cao đẹp, biết xả thân hy sinh vì người khác. Chữ nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu ở đây không đối lập với tinh thần nho giáo. Chữ nghĩa được ông hiểu theo tinh thần rộng mở, nghĩa là điều hợp với lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của mọi người trong xã hội. Nó đặc biệt gắn với quan hệ tình cảm thủy chung, phù hợp với những quan niệm đạo đức của nhân dân.
Nhân vật Lục Vân Tiên là minh chứng đầu tiên cho tấm lòng trọng nghĩa khinh tài, là nhân vật lý tưởng của tác giả Nguyễn Đình Chiểu với mẫu hình người quân tử. Vân Tiên là nam tử hán nhưng không chỉ tài theo quan niệm xã hội như tài văn võ, tài kinh luân như ta có thể thấy trong các nhân vật Kim Trọng hay Từ Hải của Nguyễn Du. Vân Tiên còn được khắc họa rõ nét qua hành động, như nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn đã nhận xét “các nhân vật chính diện tích cực được miêu tả thiên về hành động và các hành động này được diễn ra như là
kết quả của sự giáo dục sâu sắc. Dường như các nhân vật tích cực đã được “chương trình hóa” cho mỗi tình huống ứng xử, khi tình huống xảy ra lập tức có hành động tương ứng” [41, tr. 638].
Lục Vân Tiên có ước mơ và tham vọng về công danh, coi thi cử là con đường để tiến thân. Vậy mà, trên bước đường vào kinh ứng thí, chàng đã nán lại, làm một việc nghĩa đó là dẹp bọn cướp Phong Lai. Lục Vân Tiên vụt thành anh hùng chỉ vì thấy việc phải mà làm:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Chàng không kịp nghĩ đến thiệt hơn, tai họa cho bản thân, cho dù bọn Phong Lai nanh vuốt có cả bầy đàn, cho dù chàng chỉ một thân cây làm gậy. Tài năng và sức mạnh chính nghĩa đã giúp chàng chiến thắng. Giúp người xong rồi, chàng chẳng màng được đền ơn, chẳng nhận lấy một chút quà mọn làm kỷ vật. Đó cũng là suy nghĩ theo lẽ phải. Phẩm chất ấy của Vân Tiên vừa biểu trưng cho chữ nghĩa trong nho giáo vừa chính là đại diện cho tấm lòng hào hiệp, tốt bụng của người dân Nam Bộ. Trong truyện, mọi hành động và cách nghĩ của Lục Vân Tiên đều cho thấy ở Vân Tiên là một nhân vật lý tưởng, hội tụ đầy đủ những chuẩn mực của một người anh hùng nghĩa hiệp, tuổi trẻ, tài cao, lòng đầy khao khát muốn được đem công danh của mình để cứu người và giúp đời. Trên đường đi thi, gặp bọn cướp Phong Lai hoành hành, Lục Vân Tiên đã xông vào để cứu dân. Đây là một việc nghĩa mà chàng không thể không làm với mục đích cao đẹp, xuất phát từ tầm lòng tự nguyện của mình:
Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân
Chỉ một mình, lại không có vũ khí, Vân Tiên đã dám bẻ gậy xông vào bọn cướp đông người giáo gươm đầy đủ. Hình ảnh Lục Vân Tiên xông xáo tung hoành được so sánh với hình ảnh Triệu Tử Long – một dũng tướng thời Tam Quốc:
Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang
Lâu la bốn phía vỡ tan…
Với võ nghệ cao cường, Lục Vân Tiên đã đánh tan bọn cướp và diệt tên đầu đảng Phong Lai. Hành động của Vân Tiên còn tỏ rõ đức độ nghĩa hiệp “Giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha”. Không sợ nguy hiểm, Vân Tiên sẵn sàng trừ hại cho dân. Đánh xong hai tên cướp, thấy hai cô gái chưa hết hãi hùng, Vân Tiên đã tỏ ra ân cần, hỏi han. Hành động của Lục Vân Tiên thật đàng hoàng chững chạc. Tuy có phần câu nệ những vẫn là phong độ giữ lễ của một nguời có văn hóa trong ứng xử với người bị hại. Thậm chí, Vân Tiên còn từ chối cái lạy trả ơn, từ chối lời mời đền đáp, không nhận trâm vàng trao tặng mà chỉ nhận lời cùng Nguyệt Nga xướng họa. Câu trả lời “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” và đặc biệt là câu nói “Nhớ câu kiến ngãi bất vi. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”, cho thấy mẫu người anh hùng lý tưởng của Nguyễn Đình Chiểu là việc thấy nghĩa thì tự nguyện làm và đã làm việc nghĩa thì không cần trả ơn. Đó cũng là quan niệm của nhân dân ta “Làm phúc không cần được phúc”. Qua hành động này, cho thấy một minh chứng rằng Vân Tiên không chỉ là con người tài ba, dũng cảm mà còn là con người trọng nghĩa khinh tài.
Ngay đến nhân vật tiểu đồng, kẻ tôi tớ, hay cũng là bạn đường của Lục Vân Tiên suốt chặng đường chàng lên kinh ứng thí, cũng nghĩ suy và hành động đâu kém người quân tử. Chú tận tụy chăm sóc cho thầy, bôn ba tìm người chữa chạy để cứu thầy thoát khỏi nan y. Rồi khi ngỡ thầy qua đời, chú ở lại bìa rừng, che mồ tưởng nhớ, không ngớt khói nhang. Lo thầy ấm áp lúc sống, chú còn sợ thầy lạnh lẽo ở cõi bên kia. Tiểu đồng quả đã làm theo chữ nghĩa của người xưa:
“Dốc lòng trả nợ áo cơm
Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền”
Nguyễn Đình Chiểu đã dùng chữ nghĩa để nói về mối quan hệ bạn bè của Vương Tử trực. Lời của Vương Tử Trực khi nghe tai ương đến với bạn hiền Lục Vân Tiên, Tử Trực nhớ nghĩa thâm giao, tiếc tình cảm giao bôi chưa thỏa:
Than rằng: chạnh nhớ linh xưa
Nghĩa đà kết nghĩa, tình chưa phỉ tình
Trong con người Tử Trực, nghĩa và tình không thể tách phân. Tình ngày trước thế nào, tình hôm nay vẫn tràn đầy bát nước. Trong nghĩa tình bằng hữu, dường như có cả đức thủy chung. Cho dù, nghe tin Lục Vân Tiên đã chết, Vương Tử Trực cũng không vì thế mà kết duyên cùng với con gái Võ Thể Loan, mà luôn coi người con gái đã đinh ước với bạn mình là chị dâu:
Vợ Tiên là Trực chị dâu Chị dâu em bạn có đâu lỗi nghì
Các nhân vật nam chọn cho mình cách ứng xử nghĩa khí trong mọi mối quan hệ, đặc biệt là với bạn. Đó là sự lựa chọn không chút suy tư, trăn trở. Vương Tử Trực thể hiện sự dứt khoát trong suy nghĩ, lời nói. Chữ nghĩa, trong truyện thơ, được đặt vào cửa miệng biết bao nhân vật. Vì nghĩa bạn bè, các nhân vật nam giới cũng có thể rơi lệ, trái với hình ảnh ta thường thấy ở các đấng nam nhi, mạnh mẽ. Hớn Minh vì nghĩa mà có lúc quyết liệt “bẻ đi một giò”, thể hiện khí phách nam nhi, có lúc lại rơi lệ vì chính người bạn dù quen biết chưa lâu:
Mấy năm hẩm hút từng rau
Khó nghèo nỡ phụ, sang giàu đâu quên
Nguyễn Đình Chiểu chú ý đến góc nhân nghĩa, nhân nghĩa là đạo đức của nhân dân từ đó ông xây dựng ứng xử với người, yêu quý người nhân nghĩa và một thái độ dứt khoát yêu và ghét. Hớn Minh vì nhân nghĩa mà không nghĩ ngợi xa xôi, bẻ chân con trai tri huyện Loan Minh. Vương Tử Trực không do dự mắng nhiếc Võ thể Loan khi hắn bội nghĩa với Vân Tiên mà gán ghép Tử Trực với con gái hắn:
Chẳng hay người học sách chi Nói sao những tiếng kỳ dị khó nghe?
Hay là học thói nước Tề
Vợ người tử Củ đưa về Hoàn Công Hay là học thói Đường cung
Vợ người Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân