Các Công Trình Nghiên Cứu Trực Tiếp Đến Vấn Đề Giữ Gìn Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Ở Thừa Thiên Huế Hiện Nay


chính quyền, các nhà khoa học, giữ vai trò định hướng trong nhiệm vụ bảo

tồn và phát huy văn hóa phi vật thể của dân tộc.

- Chu Thái Thành trong bài “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc” [86] khẳng định từ xưa đến nay, bản sắc văn hóa dân tộc đã làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng người Việt Nam vượt qua biết bao thử thách khắc nghiệt của lịch sử để không ngừng phát triển và lớn mạnh. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng ta đã ra nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm động viên tối đa nguồn lực nội sinh và ngoại sinh để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong bài “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc” [55] khẳng định quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực chất tự bản thân nó chính là một quá trình biến mọi hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội, đặc biệt là hoạt động sản xuất tinh thần và đời sống văn hóa từng bước lên trình độ tiên tiến và hiện đại. Trong đó, bản sắc văn hoá là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển ổn định và trường tồn của văn hoá đất nước. Theo phương châm đó, CNH, HĐH ở Việt Nam phải lấy văn hóa truyền thống làm nền tảng và động lực, lấy việc làm đậm đà bản sắc văn hóa làm mục tiêu.

- Tác giả Nguyễn Chí Bền trong bài viết “Bảo tồn DSVH phi vật thể ở nước ta hiện nay” [7] xuất phát từ khái niệm DSVH phi vật thể đến chính sách đối với nó và các vấn đề đang đặt ra, tác giả đã khẳng định: Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, việc sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn, phát huy DSVH phi vật thể các dân tộc đang được đặt ra rất nhiều vấn đề đòi hỏi phải giải quyết cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô, cả ở phương diện lý luận lẫn thực tiễn.

- Tác giả Ngô Phương Thảo trong bài “Bảo vệ di sản, cuộc chiến từ những góc nhìn” [87] đã đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo vệ DSVH hiện nay. Theo tác giả thì “Mỗi ngày, DSVH càng đối mặt với nhiều nguy cơ, xuất phát từ những hệ lụy của cuộc sống hiện đại. Cũng mỗi ngày, ý thức về trách


nhiệm phải gìn giữ các giá trị văn hoá đã tồn tại với thời gian càng lan toả sâu rộng trong toàn xã hội, trong mỗi cộng đồng để dẫn tới những chương trình dự án ngày càng có hiệu quả hơn trong việc gìn giữ các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể”.

- Giáo sư Hoàng Chương trong bài báo “Thực trạng vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc” [20] cho rằng: Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc là vấn đề muôn thuở, nhưng cũng là vấn đề mang tính bức xúc của xã hội, bởi thực trạng nền văn hóa dân tộc đang có nguy cơ mai một và có nhiều vấn đề mà toàn xã hội cần quan tâm bên cạnh hiện tượng xâm thực văn hóa ngày càng gia tăng. Trong thời kỳ đổi mới, chuyển đổi sang cơ chế thị trường và nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc đang bắt đầu nảy sinh những khó khăn, tiêu cực, thiếu lành mạnh. Cụ thể là xu hướng thương mại hóa nghệ thuật dân tộc đang lan ra trên khắp các sân khấu biểu diễn. Các loại hình nghệ thuật truyền thống như Tuồng, Chèo, Cải Lương, dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca kịch ngày càng thiếu hấp dẫn với khán giả, đặc biệt là khán giả trẻ. Các rạp hát dành cho nghệ thuật dân tộc phần lớn là vắng khách, “tối đèn”. Theo tác giả, muốn bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc tốt hơn, hiệu quả hơn, bền vững hơn, Ðảng và Nhà nước phải có một chính sách đầu tư hợp lý hơn, mạnh mẽ, thỏa đáng hơn, phải quan tâm, khuyến khích những cơ quan, những tổ chức, những cá nhân đang tâm huyết cho sự nghiệp bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc; đồng thời phê phán, có biện pháp xử lý đối với những tổ chức và cá nhân không nhận thức đúng, làm tổn hại DSVH của cha ông, làm mờ nhạt bản sắc văn hóa dân tộc và hình ảnh của đất nước nghìn năm văn hiến.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRỰC TIẾP ĐẾN VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA Ở THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY

TTH hiện đang lưu giữ trong lòng nhiều DSVH vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam nên cũng được khá nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm và tiếp cận bằng nhiều cách khác nhau:

Vấn đề giữ gìn và phát huy di sản văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay - 3


1.2.1. Từ góc độ sử học

- Trong cuốn “Quần thể di tích Huế di sản thế giới” [75], tác giả Thái Công Nguyên chủ yếu giới thiệu pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hệ thống các DSVH của TTH như sông hương, núi Ngự Bình, cầu Trường tiền, Kinh thành, Hoàng thành, Đàn Nam giao, Điện hòn chén, chùa Linh mụ... đồng thời khẳng định giá trị của nó đối với sự phát triển của tỉnh TTH.

Với cuốn sách này tác giả luận án tiếp thu để có cái nhìn một cách có hệ

thống các giá trị DSVH ở Huế một cách chi tiết và khá đầy đủ.

- Tác giả Phan Thuận An trong cuốn“Kiến trúc cố đô Huế” [2] cho rằng, Huế ngày nay còn bảo lưu được một khối lượng lớn những di sản vật chất và tinh thần mang tính văn hóa nghệ thuật truyền thống của Việt Nam. Trong gần 400 năm (1558- 1945), Huế là trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng trong, rồi trở thành Kinh đô của cả đất nước thống nhất. Huế đã được xác nhận là một trung tâm văn hóa du lịch của Việt Nam, và quần thể di tích cố đô Huế đã được công nhận là một DSVH Thế giới. Sau đó một thập niên, nhã nhạc triều Nguyễn lại được tổ chức UNESSCO công nhận là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.

Cuốn sách chủ yếu giới thiệu các công trình kiến trúc, thời gian và vật liệu xây dựng các DSVH: Quách thành cung điện, kinh thành, Đại nội, Ngọ môn, điện Thái Hòa, điện Long An, Lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Tự Đức, lăng Dục Đức, lăng Đồng Khánh, lăng Khải Định, Văn Miếu Huế, đàn Nam Giao, Hổ Quyền, điện Hòn Chén, chùa Thiên Mụ.

Nhìn chung, cuốn sách này đã bổ sung cho tác giả luận án một cách nhìn phong phú hơn: có thể tiếp cận một cách cụ thể, hiểu thêm kiến trúc các DSVH ở TTH để từ đó có cơ sở đưa ra một số kiến nghị nhằm bảo vệ, giữ gìn và phát huy có hiệu quả các DSVH đó.

1.2.2. Từ góc độ văn hóa học, quản lý văn hóa

Tập san kỷ niệm 5 năm thực hiện dự án quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế: “Thời gian đã chứng minh” [108] gồm 42 bài viết bàn về những thành tựu mà Huế đạt được sau 5 năm thực hiện dự án quy


hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế. Trong đó các bài liên quan đến trực tiếp đến luận án: Chặng đường ngắn trên con đường dài (Thái công Nguyên), Đẩy mạnh công cuộc bảo tồn khu di tích Huế- di sản thế giới đầu tiên ở Việt Nam (Trương Quốc Bình); công cuộc bảo tồn các di sản văn hóa Huế, Việt Nam (Phan Thanh Hải và Shin’e Toshihiki).

Tác giả luận án có thể kế thừa những khía cạnh sau:

- Phương pháp đánh giá tình trạng di tích Huế trước và sau khi có quyết định 105/TTg của thủ tướng chính phủ về bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế.

- Kế thừa và phát triển thêm khi phân tích các yếu tố tác động đến công

tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH ở Huế hiện nay.

- Tham khảo những số liệu về kinh phí tu bổ, các công trình di sản được tu bổ, mục tiêu bảo tồn DSVH phi vật thể cung đình Huế cũng như công tác phát huy DSVH của tỉnh nhà trong thời gian tới.

- Tham khảo vai trò của các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương trong việc phối hợp, tổ chức thực hiện nghị quyết 105/TTg của thủ tướng chính phủ và nghị quyết 06/NQ- TƯ của Tỉnh ủy TTH về bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế.

- Kế thừa chọn lọc một số giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường việc bảo vệ và phát huy quần thể di tích lịch sử- văn hóa Huế trước bối cảnh mới của thời kỳ mới.

Cuốn “Huế Di sản và cuộc sống” [109] gồm 28 bài viết của các nhà nghiên cứu văn hóa Huế chủ yếu khẳng định sau 10 năm kể từ khi quần thể di tích cố đô Huế đã được công nhận là một DSVH Thế giới, sự nghiệp giữ gìn và phát huy DSVH Huế đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Mới 5 năm được thế giới công nhận, quần thể di tích cố đô Huế đã vượt qua được giai đoạn cứu nguy khẩn cấp để kịp bước vào thời kỳ ổn định và phát triển. Trong 5 năm tiếp theo hàng chục dự án trùng tu di tích lớn đã được thực hiện thành công; các chính sách và biện pháp cụ thể để bảo tồn và phát huy các DSVH phi vật thể cũng được xúc tiến mạnh mẽ, đặc biệt là việc


xây dựng hồ sơ đề nghị UNESSCO công nhận nhã nhạc cung đình Huế là một “Kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”. Huế đã trở thành điểm hẹn hấp dẫn của du khách bốn phương và lượng khách không ngừng gia tăng qua các năm. Từ năm 2000, Huế đã được chính phủ chọn làm thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam.

Các bài viết trong cuốn sách liên quan trực tiếp đến đề tài luận án: DSVH Huế cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển của tác giả Phạm Gia Khiêm; DSVH Huế- 10 năm hội nhập và phát triển của tác giả Phùng Phu; Di tích Huế trên chăn đường chuẩn hóa trùng tu của tác giả Trần Bá Việt; Giá trị của Nhã nhạc cung đình Huế của tác giả Trần Văn Khê; DSVH Huế trong giao lưu và hội nhập với văn hóa Thế giới của tác giả Phan thuận An. Từ việc xây dựng các cơ sở khoa học trong hồ sơ trình UNESCO công nhận di sản thế giới đến thực tiễn công tác bảo tồn di tích Huế của tác giả TS. Phan Tiến Dũng.

Với những bài viết mang tính khái quát, tác giả luận án có thể kế thừa

những khía cạnh sau:

- Thành tựu 10 năm của tỉnh TTH trong việc giữ gìn các giá trị DSVH kể từ khi UNESSO công nhận DSVH thế giới (1993- 2003) đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy các giá trị DSVH, làm động lực để phát triển du lịch địa phương, đóng góp ngân sách cho sự phát triển của tỉnh nhà.

- Đánh giá quần thể di tích cố đô Huế trong công tác nghiên cứu, trùng tu các di tích tiêu biểu của DSVH Huế: Lăng Khải Định, Điện Khải Hoàn, Lầu Ngũ Phụng, cung An Định v.v…

- Có cái nhìn sâu hơn về giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật của Nhã nhạc cung đình Huế, một kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu được tổ chức UNESSCO công nhận năm 2003.

- Những chuyển biến tích cực của khu di tích Huế trong quá trình thực hiện Dự án Quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế giai đoạn 1996- 2010.

Kỷ yếu hội thảo: “DSVH Huế nghiên cứu và bảo tồn” [111] của Trung tâm

Bảo tồn di tích cố đô Huế gồm những bài viết về công tác bảo tồn, phát huy các


giá trị di sản ở TTH và các giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao công tác này cho hoạt động du lịch và phát triển kinh tế ở tỉnh nhà. Thông qua các bài viết trong hội thảo tác giả kế thừa được sự đánh giá những mặt làm được và chưa làm được của công tác bảo tồn, phát huy DSVH ở TTH.

Cuốn sách “30 năm bảo tồn và phát huy giá trị DSVH Huế (1982- 2012)” [115] khẳng định DSVH Huế là một kho báu, một bộ phận cấu thành sinh thái văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đây là mấu chốt của vấn đề mở rộng phát triển du lịch, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời biết khai thác và phát huy những giá trị văn hóa cũng là một giải pháp để giữ gìn, làm cho di tích sống lại, hòa với cuộc sống đương đại.

Cuốn sách ghi lại những hình ảnh của hoạt động bảo tồn, trùng tu di tích; hoạt động bảo tồn, phục hồi văn hóa phi vật thể; hoạt động tôn tạo cảnh quan môi trường; hoạt động hợp tác đối ngoại; hoạt động bảo tàng, trưng bày, triển lãm; hoạt động nghiên cứu khoa học; hoạt động tuyên truyền quảng bá; hoạt động phát huy giá trị di tích; các lễ hội trong Festival Huế của TTBTDTCĐ Huế, một cơ quan chủ quản trong việc tôn tạo và phát huy giá trị di sản. Với những tư liệu này tác giả luận án vận dụng khi luận giải những vấn đề thành tựu và hạn chế của thực trạng giữ gìn và phát huy giá trị DSVH ở TTH.

Kỷ yếu hội thảo khoa học: “ Tiềm năng và hướng phát triển du lịch Bắc trung bộ” [135] của UBND tỉnh TTH, Thể thao và du lịch- Hội Khoa học lịch sử TTH là tập hợp của 26 bài viết bàn về tiềm năng và định hướng phát triển du lịch Bắc trung bộ. Trong đó có những bài viết như: phát huy lợi thế văn hóa- xây dựng TTH trở thành điểm đến ngang tầm thế giới của TS. Phan Tiến Dũng; Tiếp tục khai thác tiềm năng, thiết kế thêm nhiều tuyến tham quan cho du lịch TTH của Nguyễn Đắc Xuân; DSVH lợi thế đặc biệt của du lịch TTH của TS. Phan Thanh Hải…đã gợi mở cho tác giả luận án khi giải quyết vấn đề phát huy DSVH ở TTH hiện nay.

Cuốn “Công cuộc bảo tồn di sản thế giới ở TTH” [116] là tập hợp của nhiều bài viết đánh giá những thành tựu cũng như hạn chế qua một chặng đường bảo tồn di sản ở Huế. Khẳng định những nỗ lực của các cấp chính


quyền địa phương, nhân dân TTH đã là cho DSVH ở TTH từng bước hồi sinh diện mạo vốn có trong lịch sử và đang vươn mình với sức sống ngày càng mãnh liệt. Cuộc vận động bảo vệ di tích Huế đã được Unesco đánh giá là một trong hai cuộc vận động toàn cầu mang lại hiệu quả thiết thực nhất. Các bài viết trong cuốn sách đã cho tác giả luận án một cái nhìn khái quát, hệ thống quá trình giữ gìn và phát huy DSVH ở Huế giai đoạn 1993- 2013.

Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tạp chí liên quan đến đề tài luận án như:

- Bài viết của tác giả Phan Tiến Dũng “Bảo tồn DSVH phi vật thể - một yếu tố cơ bản làm cho giá trị quần thể di tích Huế luôn được tỏa sáng” [25] đã khẳng định bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể là một công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi thời gian dài và sự quyết tâm của chính quyền, nhân dân tỉnh TTH. Công tác bảo tồn sẽ đưa lại hiệu quả to lớn cho văn hóa - con người xứ Huế: Bồi đắp cho Huế có được một diện mạo và tâm hồn sâu sắc, một vùng đất luôn hấp dẫn mọi người đến tìm tòi, khám phá. Từ những thành quả bước đầu của việc bảo tồn phi vật thể ở Huế, tác giả đã bàn đến một số định hướng bảo tồn cho các giai đoạn tiếp theo.

- Tác giả Huỳnh Đình Két trong bài “Di tích cảnh quan Huế- một số vấn đề về công tác bảo tồn” [62] khẳng định để làm tốt công tác bảo tồn di tích cảnh quan Huế cần phải xem xét các mối quan hệ chi phối di tích cảnh quan, từ đó đưa ra một số kiến nghị như phải xây dựng một cơ chế bảo vệ di tích, cấp giấy chứng nhận di tích, cần có chế độ riêng đối với di tích đã được xếp loại, xây dựng dư luận xã hội theo hướng bảo tồn di tích cảnh quan Huế là đảm bảo lợi ích văn hoá của cộng đồng...

- TS Lê Đình Phúc trong bài “Nhã nhạc cung đình Huế với việc phát triển du lịch” [78] cho rằng, nhờ giá trị nổi bật của mình, Nhã nhạc có phạm vi lan tỏa và ảnh hưởng rộng đến các loại hình âm nhạc khác ở Việt Nam. Nhã nhạc được xem là tài sản chung của bốn nước trong khu vực: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam. Sự tương đồng về nghệ thuật của Nhã nhạc cung đình Huế với nhã nhạc của các nước đồng văn đã tạo điều kiện


thúc đẩy sự giao lưu văn hóa giữ các cộng đồng dân tộc, từ đó tất yếu nảy

sinh nhu cầu du lịch để tìm hiểu sâu sắc hơn giá trị văn hóa.

- Tác giả Nguyễn Hữu Thông trong bài“ Hệ giá trị và nhân tố con người trong DSVH xứ Huế” [91] trên cơ sở phân tích sự khác nhau giữa tính bền vững của những giá trị truyền thống và tính hỗn dung hai mặt của di sản cổ truyền đã tập trung lý giải 2 vấn đề lớn: Hệ di sản đặc trưng của Huế; yếu tố con người trong bảo tồn và phát huy di sản. Đối với hệ di sản đặc trưng của Huế, gồm: DSVH cung đình, DSVH dân gian, DSVH tâm linh nhất thiết phải coi trọng cả phần “xác” lẫn phần “hồn”. Cững như trong phát triển kinh tế, tác giả bài viết cho rằng: yếu tố con người cực kỳ quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy DSVH Huế, phải cùng nhau tạo nên một nguồn nhân lực có thể lực cường tráng và tinh thần khỏe mạnh, phải biết làm chủ tính cách và lề thói, biết đoạn tuyệt với lối mòn tư duy và nếp nghĩ, biết chất vấn chính mình, hiểu tận ngon nguồn những rào cản và trở lực một cách khoa học để tiến về phía trước.

- TS Phan Thanh Hải trong bài viết“30 năm bảo tồn và phát huy DSVH Huế” [46] cho rằng, DSVH Huế là một phức hệ bao gồm cả quần thể di tích cố đô đồ sộ với thành quách, cung điện, lăng tẩm, đàn miếu, đài tạ, chùa quán, cầu cống, phủ đệ; hệ thống kiến trúc cộng đồng, tôn giáo và kiến trúc dân gian; các giá trị văn hóa phi vật thể phong phú; các giá trị cảnh quan môi trường độc đáo. Tuy nhiên, sau khi triều Nguyễn chấm dứt, hai cuộc chiến tranh kéo dài suốt 30 năm (1945-1975) đã tàn phá nghiêm trọng các DSVH . Bên cạnh đó, việc quản lý lỏng lẻo cùng việc tu sửa các di tích một cách tùy tiện trước đây đã gây ảnh hưởng bất lợi cho các di sản. Trong 30 năm qua, Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh TTH và Bộ Văn hóa Thông tin, công cuộc bảo tồn di tích Cố đô Huế đã được triển khai và đạt kết quả rất quan trọng: DSVH Huế đã vượt qua giai đoạn cứu nguy khẩn cấp và đang từng bước hồi sinh diện mạo ban đầu của một Cố đô lịch sử. Công cuộc bảo tồn di tích Huế chuyển sang giai đoạn ổn định và phát triển bền vững. Bài viết đã cho tác giả cái nhìn tổng quát về những thành tựu đạt được của việc giữ gìn và phát huy DSVH của TTH trong giai đoạn hiện nay.

Xem tất cả 187 trang.

Ngày đăng: 05/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí