Từ 01/01/2015 khi Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT có hiệu lực thi hành, BHYT học sinh đã chính thức chuyển thành BHYT bắt buộc.Thực hiện Luật BHYT (năm 2008) và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT (năm 2014), mức đóng BHYT của học sinh, sinh viên bằng 6% mức lương cơ sở.
Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHYT đã quy định mức đóng của BHYT học sinh, sinh viên là 3% mức lương cơ sở. Do đó, từ năm học 2010 – 2011 đến năm học 2014 - 2015, học sinh, sinh viên tham gia BHYT đóng mức phí bằng 3% mức lương cơ sở.
Thực hiện Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT, Chính phủ ban hành Nghị định số 105/2014-NĐ-CP ngày 15/11/2014 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHYT đã quy định mức đóng là 4,5% mức lương cơ sở (tăng từ 3% lên 4,5). Để giảm bớt khó khăn cho phụ huynh, học sinh, tại Nghị định này, Chính phủ đã quy định hỗ trợ tối thiểu 30% mức đóng BHYT đối với đối tượng học sinh, sinh viên theo quy định tại Điểm b, Khoản 4, Điều 12 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT. Đồng thời, Chính phủ cũng quy định tại Điều 11, Chương IV về Điều khoản chuyển tiếp: “Học sinh, sinh viên tham gia đóng BHYT cho cả năm học 2014 - 2015 thì không phải truy thu đóng phần chênh lệch theo mức đóng BHYT quy định tại Điểm g, Khoản 1, Điều 2 Nghị định này”.
Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014 của liên Bộ Y tế - Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện BHYT theo quy định của Luật BHYT và Nghị định số 105 của Chính phủ quy định cơ sở giáo dục thu tiền đóng phần thuộc trách nhiệm phải đóng của học sinh, sinh viên 06 tháng hoặc một năm một lần nộp vào Quỹ BHYT (Khoản 5, Điều 2). Căn cứ quy định của Luật BHYT và các văn bản dưới Luật, việc tăng mức đóng là đúng quy định và phù hợp với mặt bằng chung giữa các nhóm đối tượng tham gia
BHYT. Việc thực hiện thu BHYT học sinh, sinh viên 06 tháng hoặc 01 năm cũng đã được các cơ quan quản lý cân nhắc, tạo thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện ở cơ sở.
Điều cần quan tâm là theo quy định của Luật BHYT mới, do có khoản hỗ trợ 30% mức đóng BHYT cho học sinh, sinh viên nên việc thực hiện BHYT cho đối tượng này từ năm học 2015 - 2016 không thực hiện theo năm học mà theo năm tài chính. Từ đó, việc thu phí đóng BHYT học sinh, sinh viên cho năm 2016 phải thu cả 03 tháng cuối năm 2015 (do năm trước thực hiện theo năm học đã thu đến tháng 09/2015) cùng với 12 tháng của năm 2016, như vậy dẫn đến việc thu 15 tháng cho năm đầu tiên thực hiện Luật BHYT sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT. Và thẻ BHYT có giá trị sử dụng từ tháng 10/2015 đến tháng 12/2016. Tùy theo tình hình thực tế, việc thực hiện thu BHYT học sinh, sinh viên theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT được các địa phương thực hiện, có thể thu làm các đợt cho phù hợp.
Tuy nhiên, bước vào năm học mới 2015 - 2016, vốn học sinh, sinh viên đã chịu nhiều áp lực các khoản thu đầu năm, nay thêm việc tăng mức đóng lại trùng với việc thu gộp nhưng cơ quan, đơn vị có trách nhiệm tổ chức thực hiện chưa lường hết những khó khăn, trở ngại và chưa làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến tại cơ sở trước khi tiến hành, đã dẫn tới việc phản ứng của dư luận và Ngành BHXH Việt Nam đã kịp thời lắng nghe, tiếp thu, điều chỉnh, giúp cho việc thực hiện BHYT học sinh, sinh viên đi vào ổn định và tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
1.2.4. Cơ sở thực tiễn Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên
* Bảo hiểm y tế một số nước trên thế giới
- BHYT ở Vương Quốc Bỉ: BHYT là một phần không thể tách rời của An sinh xã hội Vương Quốc Bỉ, được thực hiện theo nguyên tắc “toàn dân, bắt buộc, đoàn kết”, có nghĩa tất cả người dân đều phải tham gia BHYT, theo
Có thể bạn quan tâm!
- Vấn đề đổi mới việc thực hiện Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên trên báo in và báo điện tử ở Việt Nam hiện nay - 2
- Những Vấn Đề Chung Về Loại Hình Báo In Và Báo Điện Tử
- Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Về Bảo Hiểm Y Tế Học Sinh, Sinh Viên
- Vai Trò Của Báo In, Báo Điện Tử Đối Với Thông Tin Đổi Mới Chính Sách Bảo Hiểm Y Tế Học Sinh, Sinh Viên
- Thống Kê Số Lượng Tác Phẩm Có Thông Tin Về Bảo Hiểm Y Tế Học Sinh, Sinh Viên Giai Đoạn Từ Tháng 10/2014 Đến Tháng 10/2015
- Tỷ Lệ Tin, Bài Đề Cập Tới Vấn Đề Bhyt Học Sinh, Sinh Viên
Xem toàn bộ 146 trang tài liệu này.
hình thức bắt buộc, để bù đắp, trợ giúp lẫn nhau khi không may ốm đau, bệnh tật. Quỹ BHYT của Bỉ hình thanh từ 03 nguồn chính là: Mức phí BHYT do người tham gia đóng góp (chiếm 75% quỹ); tài trợ của Chính phủ (NSNN) và các nguồn khác.
- Chính sách BHYT tại Đài Loan: BHYT Đài Loan được thực hiện từ năm 1995 theo hình thức BHYT bắt buộc theo Luật với tất cả mọi người dân. Tỷ lệ bao phủ là 99% dân số (23 triệu người tham gia). Mức đóng quyền lợi của người tham gia BHYT được thống nhất trên toàn quốc .
+ Quỹ BHYT được hình thành từ các nguồn chính: từ đóng góp người lao động, người sử dụng lao động, Chính phủ. Ngoài ra, một số lợi tức thu được từ xổ số, thuế thuốc lá cũng được bổ sung cho nguồn quỹ BHYT.
+ Mức đóng BHYT hiện tại là 5,17% thu nhập. Tùy theo từng nhóm đối tượng mà mức tự đóng/ hỗ trợ của Chính phủ khác nhau.
* BHYT ở Pháp: BHYT ở Pháp có tính bắt buộc và độc quyền kể cả những người nước ngoài cư trú tại Pháp đều phải đóng góp vào hệ thống BHYT này. Tất cả mọi người đều có thẻ khám bệnh, trẻ em trên 16 tuổi thì có thẻ riêng, trước đó đăng ký trên thẻ của cha mẹ. Hiện nay, người dân đi khám bệnh hoặc mua thuốc hầu như không phải trả tiền ngoại trừ các khoản đóng góp bắt buộc bắt đầu áp dụng từ năm 2005: như chuyển từ chế độ miễn phí hoàn toàn sang chế độ đóng góp - mỗi lần khám bệnh phải trả 1euro, mỗi lọ thuốc sẽ đóng 0,5euro...; đặt ra chế độ bác sỹ theo dõi; chế độ khám chữa bệnh hay mua thuốc của bệnh nhân.
* BHYT ở Việt Nam: BHYT ở Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, của Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ và Hội đồng Quản lý; sự phối hợp tạo điều kiện của các Bộ, Ngành ở Trung ương và các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong việc tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT cho người lao động và nhân dân. Qua việc nghiên cứu BHYT ở trên có thể thấy BHYT ở các nước rất đa dạng và hầu
như không giống nhau vì chúng phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội.
Trong giai đoạn đầu phát triển BHYT nói chung, BHYT học sinh, sinh viên nói riêng cũng gặp phải rất nhiều khó khăn (người dân không mặn mà với BHYT hoặc xảy ra tình trạng “Lựa chọn ngược” chất lượng dịch vụ, đội ngũ y, bác sĩ thiếu không đáp ứng được yêu cầu…).
Căn cứ vào đặc điểm riêng của Việt Nam cũng như qua nghiên cứu BHYT nói chung và BHYT học sinh, sinh viên của một số nước cho chúng ta một số bài học kinh nghiệm, từ đó làm cơ sở để xây dựng, hoàn thiện BHYT học sinh ở Việt Nam:
BHYT học sinh, sinh viên muốn thực được tốt phải tuân thủ theo đúng các quy luật phát triển khách quan của nó, không thể chủ quan duy ý chí hoặc áp đặt tuỳ tiện, nôn nóng đáp ứng ngay nhu cầu mong muốn của mọi người, trong khi mọi điều kiện cơ bản để hình thành, ổn định và phát triển nó chưa có hoặc chưa đầy đủ.
Phải xây dựng hoàn chỉnh chính sách BHYT học sinh, sinh viên: chính sách BHYT học sinh, sinh viên chủ yếu hướng tới đối tượng là học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường, cơ sở giáo dục trên cả nước.
BHYT học sinh, sinh viên phải thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp...và nền kinh tế quốc dân nói chung.
Quỹ BHYT học sinh, sinh viên phải được Nhà nước bảo hộ và phải nằm trong quỹ BHYT nói chung của toàn quốc. Chỉ có như vậy mới đảm bảo cho quỹ được bảo toàn, ổn định và phát triển.
Tổ chức BHYT cho đối tượng học sinh, sinh viên phải nằm trong guồng máy chung của BHXH Việt Nam, không thể tách rời để hoạt động động lập với BHXH Việt Nam.
- BHYT học sinh, sinh viên mang tính nhân văn, xã hội sâu sắc. Con người nếu không tham gia BHYT phải bỏ ra toàn bộ chi phí khi đi KCB và
trong nhiều trường hợp số tiền phải thanh toán vượt quá khả năng tài chính của họ. Tuy nhiên nếu họ tham gia BHYT, họ có thể nhận được sự chia sẻ của cả cộng đồng và vấn đề tài chính không trở thành một áp lực với họ khi không may ốm đau, bệnh tật, kể cả trong trường hợp hiểm nghèo. Thực tế cho thấy chi phí Y tế trong nhiều trường hợp trở thành một trong các “bẫy đói nghèo” của nhóm dân cư có mức sống thấp.
- Góp phần thực hiện công bằng xã hội, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe cho HSSV. Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe cho nhân dân nói chung HSSVnói riêng là phải đảm bảo cho mọi mọi người dân được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản có chất lượng tốt, dựa trên nhu cầu chăm sóc sức khỏe, có chính sách trợ giúp người nghèo được khám chữa bệnh khi ốm đau. BHYT đảm bảo công bằng trong chăm sóc sức khỏe cho mọi người dân, trên cơ sở tạo ra những cơ hội tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của toàn dân;
+ BHYT học sinh, sinh viên góp phần thực hiện công bằng xã hội. Chia sẻ trong BHYT là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại giữa những người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe mạnh, may mắn cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHYT học sinh, sinh viên góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo trong chăm sóc sức khỏe và KCB.
- Tạo nguồn lực phát triển Y tế học đường. Qua hơn 20 năm thực hiện, đặc biệt là từ khi thực hiện Luật BHYT đến nay, cùng với số thu BHYT học sinh, sinh viên tăng đều qua các năm, số kinh phí trích lại từ tiền thu BHYT dành cho Y tế học đường cũng tăng lên đáng kể. BHYT học sinh, sinh viên đã phát huy hiệu quả thiết thực với công tác chăm sóc sức khỏe học đường. Kinh
phí chăm sóc sức khỏe ban đầu cho HSSV luôn được cơ quan BHXH chuyển kịp thời, tạo nguồn lực quan trọng phát triển y tế trường học.
- BHYT học sinh, sinh viên thực sự là chỗ dựa với bản thân mỗi học sinh cũng như gia đình, giúp các em yên tâm học hành, vượt qua khó khăn bệnh tật. Trung bình mỗi năm có hàng triệu lượt HSSV tham gia BHYT được Quỹ BHYT chi trả chi phí khám, chữa bệnh khi gặp rủi ro, ốm đau. Có nhiều trường hợp HSSV mắc các bệnh nan y, chi phí chữa trị lên tới hàng trăm triệu đồng cũng được Quỹ BHYT chi trả, giúp các em có cơ hội điều trị bệnh tật.
1.3. Mối quan hệ giữa báo chí với Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên
1.3.1. Vai trò của Báo chí trong đời sống xã hội
Báo chí là một trong những hệ thống xã hội, có quan hệ mật thiết với các yếu tố kiến trúc thượng tầng. Báo chí là loại hình hoạt động thông tin chính trị - xã hội. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của báo chí không có mục đích tự thân, mà luôn gắn bó chặt chẽ với cuộc sống - xã hội - con người.
Là một loại hình hoạt động đặc thù, ra đời do những nhu cầu khách quan của xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định của văn minh nhân loại, báo chí mang trong mình những tiềm năng có ý nghĩa rất to lớn đối với xã hội. Chính những tiềm năng đó đã quy định tính chất khách quan của các chức năng của báo chí. Nói cách khác, bản thân sự ra đời và tồn tại của báo chí đã khẳng định một cách khách quan vai trò, tác dụng và ý nghĩa của báo chí cũng chính là chức năng xã hội của nó. Lý luận báo chí Mác – Lênin và thực tiễn hoạt động của các phương tiên thông tin đại chúng cho thấy báo chí có các chức năng cơ bản là: chức năng tư tưởng, chức năng quản lý và giám sát xã hội và chức năng văn hóa, giải trí.
Trong đời sống chính trị - xã hội, báo chí giữ vai trò hết sức quan trọng. Bất kỳ một lực lượng cầm quyền nào trong các quốc gia trên thế giới đều sử dụng báo chí như một công cụ để tác động vào tư tưởng, tình cảm của công chúng, nhằm tạo ra ở họ những nhận thức mới, những định hướng có giá trị
trong cuộc sống.
Báo chí không chỉ là vũ khí tư tưởng sắc bén, lợi hại mà còn là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể. Báo chí là công cụ, vũ khí trên mặt trận tư tưởng - văn hoá, là công cụ tham gia quản lý xã hội; Báo chí thông tin và phản ánh toàn diện đời sống xã hội. Không một đề tài báo chí nào, không một nguồn thông tin nào lại không bắt nguồn từ hoạt động của con người.
Trong lĩnh vực kinh tế, báo chí không chỉ dừng lại trong việc cung cấp thông tin thuần tuý, mà còn có thể hướng dẫn thị trường, hướng dẫn việc áp dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới, giới thiệu những mô hình, điển hình tiên tiến trong sản xuất và kinh doanh. Với việc phổ biến các kinh nghiệm thành công hay thất bại trong quản lý, kinh doanh và áp dụng công nghệ mới, tiết kiệm chi phí trong sản xuất, báo chí góp phần tạo nên hiệu quả kinh tế lớn cho xã hội.
Trong lĩnh vực văn hoá xã hội, thông qua kênh báo chí công chúng có thể tiếp thu và làm giàu thêm vốn tri thức văn hoá cho mình. Báo chí có nhiệm vụ và vai trò to lớn trong việc nâng cao nhận thức, thẩm mỹ, giáo dục và giải trí đối với nhân dân; một mặt tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, mặt khác giữ gìn và phát huy bản sắc, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Thông qua các sản phẩm của mình, báo chí có vai trò truyền bá những tiêu chuẩn và các giá trị tinh thần; xây dựng ý thức công dân, định hướng công chúng đến với chân - thiện - mỹ.
Báo chí ở nước ta là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân. Báo chí có nhiệm vụ thông tin trung thực về tình hình trong nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân; Tuyên truyền, phố biến, góp phần xây dựng và bảo về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ mục đích của cơ quan báo chí; Góp
phần ổn định chính trị, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hoá lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội, làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân; Phát hiện, nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới, đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực khác...
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với nền kinh tế tri thức, toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, báo chí càng có vai trò to lớn tuyên truyền phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; động viên toàn Đảng, toàn dân vượt qua mọi khó khăn thử thách, năng động sáng tạo, giữ vững ổn định chính trị, cổ vũ mạnh mẽ các nhân tố tích cực đi liền với việc phê phán các hành vi tiêu cực, là vũ khí sắc bén tuyên truyền, giáo dục, tập hợp, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. "Xã hội càng phát triển, thông tin báo chí càng có vai trò to lớn. Với nội dung thông tin có tính định hướng đúng đắn chân thật, có sức thuyết phục, báo chí xuất bản có khả năng hình thành dư luận xã hội, dẫn đến hành động xã hội phù hợp sự vận động của hiện thực theo những chiều hướng có chủ định. Báo chí, xuất bản không chỉ là vũ khí tư tưởng sắc bén, lợi hại mà còn là người cổ động tập thể, người tổ chức tập thể, điều này càng đúng trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay" [Ban Tư tư tưởng - Văn hoá Trung ưương, Bộ Văn hoá - Thông tin (1997), Tiếp tục đổi mới và tăng cưường lãnh đạo Báo chí xuất bản, Kỷ yếu Hội nghị Báo chí, xuất bản toàn quốc, Hà Nội, tr.38].
1.3.2. Báo chí với công tác truyền thông về chính sách Bảo hiểm y tế
Báo chí ở nước ta là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, báo chí ở nước ta luôn quan tâm thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ truyền