Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 25


quyết định sự thành công trong CNH, HĐH và việc nâng cao vai trò của nhà nước trong quản lý phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định. Thực tế, Đài Loan đã có sự chuẩn bị cho việc cung ứng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH thông qua việc chú trọng đào tạo lao động kỹ thuật và đội ngũ những nhà quản lý, chủ doanh nghiệp có trình độ. Việc kết hợp giữa nhà nước và tư nhân trong phát triển giáo dục đào tạo đã mang lại những kết quả tích cực. Nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục đào tạo và gia tăng các nguồn vốn từ khu vực tư nhân đã góp phần hình thành và phát triển hệ thống các trường đào tạo với cơ cấu hợp lý. Nhờ đó, Đài Loan đã có điều kiện thay thế dần lực lượng lao động trình độ thấp bằng lực lượng lao động được đào tạo bài bản cả về văn hoá và nghề nghiệp. Đồng thời, chính sách sử dụng nguồn nhân lực hợp lý đã có tác dụng động viên, khuyến khích người lao động nâng cao hiệu quả làm việc.

Với Việt Nam hiện nay là một nước có dân số lớn, lực lượng lao động dồi dào thì nguồn nhân lực còn có điều kiện phát triển. Điều quan trọng là nhà nước cần có sự đổi mới trong chính sách phát triển nguồn nhân lực nhằm hướng tới mục tiêu phát triển và quản lý sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho CNH, HĐH thời gian tới, Nhà nước cần thực hiện các chính sách và giải pháp sau:

- Trước tiên, Nhà nước phải chú trọng công tác chuẩn bị nhân lực cho CNH, HĐH. Các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác dự báo: về nhu cầu đầu tư, nhu cầu nhân lực, khả năng đáp ứng của lực lượng lao động hiện có, cơ cấu ngành nghề cần đào tạo... để có chính sách định hướng và hỗ trợ đào tạo.

- Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho CNH, HĐH trước hết phải đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục đào tạo theo hướng gắn chặt với thị trường lao động, với nhu cầu phát triển của sản xuất và kinh doanh. Do vậy, nhà nước cần có chính sách và biện pháp nhằm:


+ Nâng cao hiệu quả hoạt động xã hội hoá hoạt động giáo dục - đào tạo. Cần tăng cường tính minh bạch hoá về các khoản ngân sách dành cho giáo dục nhằm hạn chế tình trạng lãng phí và kém hiệu quả trong đầu tư cho giáo dục. Sự minh bạch sẽ tạo điều kiện huy động thành công các nguồn tài trợ từ khu vực tư nhân và nước ngoài cho giáo dục bởi điều mà những người tài trợ quan tâm chính là hiệu quả sử dụng nguồn tài trợ đó.

+ Tiến hành cải cách hệ thống giáo dục phổ thông trên quan điểm toàn diện, có tính hệ thống và có lộ trình rõ ràng. Trong thiết kế chương trình cải cách cần bắt đầu từ việc xây dựng quan niệm mới về giáo dục - đào tạo gắn với những đòi hỏi của kinh tế thị trường và xu thế phát triển kinh tế tri thức, trên cơ sở đó xây dựng mới chương trình giảng dạy, đề ra các quy trình cụ thể. Đặc biệt, trong thiết kế chương trình cải cách cần tham khảo ý kiến đóng góp của các cơ quan chức năng, đội ngũ các nhà sư phạm đang giảng dạy, và các tầng lớp nhân dân để tránh hiện tượng chủ quan, áp đặt.

+ Cải cách hoạt động đào tạo nghề theo hướng đa dạng hoá các loại hình đào tạo nghề. Tăng nguồn ngân sách và khuyến khích mọi tầng lớp dân cư đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho đào tạo nghề. Khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trực tiếp thực hiện việc đào tạo nghề cho người lao động.

+ Tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ hơn nữa trong giáo dục đại học theo hướng nâng cao chất lượng, gắn kết đào tạo với nhu cầu của thị trường lao động và có những bước đi chiến lược để hình thành những ngành nghề đào tạo tiên tiến theo xu hướng phát triển của thế giới để đáp ứng nhu cầu nhân lực và chuẩn bị nguồn nhân lực cần thiết khi nền kinh tế hướng dần đến phát triển kinh tế tri thức. Đặc biệt, nhà nước cần có chính sách đổi mới cơ chế tuyển dụng, đãi ngộ, cơ chế tài chính tạo điều kiện cho các trường có thể thu hút được những cán bộ giảng dạy, nghiên cứu có chất lượng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.


+ Tại Hội nghị TW 4 (khoá X) của Đảng, thị trường giáo dục - đào tạo đã bước đầu được chính thức thừa nhận. Đó là một bước tiến mới trong nhận thức về chính sách phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH trong cơ chế thị trường. Do vậy, nhà nước cần hoàn thiện khung khổ pháp lý cho sự phát triển của loại thị trường này, tạo điều kiện cho nó hoạt động theo đúng nguyên tắc thị trường.

Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 25

+ Triển khai có hiệu quả các dự án trong Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục đào tạo (2008).

Với nước ta, trong giai đoạn tới, chiến lược CNH, HĐH phải là chiến lược CNH, HĐH dựa chủ yếu vào tri thức và công nghệ mới bởi đây là lực lượng sản xuất mới và là lợi thế phát triển chủ yếu của thời đại. Chiến lược này gắn chặt với quan điểm phát triển lấy con người làm gốc, lấy tri thức làm cơ sở.

3.3.6. Cần có chính sách và biện pháp mang tính đột phá trong phát triển cơ sở hạ tầng

Kinh nghiệm Đài Loan cho thấy, để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, bên cạnh việc đảm bảo sự ổn định về môi trường kinh tế - chính trị - xã hội, còn cần đến một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn thiện và đồng bộ. Phát triển cơ sở hạ tầng có thể được xem xét với tư cách là một nội dung, một bước đi có tính tiền đề của quá trình CNH, HĐH. Do vậy, để góp phần đẩy nhanh CNH, HĐH nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra, nhà nước cần hết sức coi trọng việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật.

Mặc dù những năm qua, Nhà nước ta đã chú trọng tới việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng xét trong mối quan hệ với nhu cầu phát triển cũng như năng lực đáp ứng các cơ hội tạo ra, trình độ thực tế của hệ thống hạ tầng cơ sở ở nước ta còn thấp, tụt hậu khá xa. Đó là một yếu tố kém hấp dẫn các nhà đầu tư.

Để cải thiện tình hình trên, trong thời gian tới Nhà nước cần:

- Quán triệt quan điểm phát triển cơ sở hạ tầng là yếu tố đóng vai trò tiền đề cho CNH, HĐH nên việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cần được tính toán


trước và phải có tác dụng hướng dẫn nhu cầu đầu tư. Nói cách khác, Nhà nước cần phải thiết kế lộ trình phát triển cơ sở hạ tầng gắn với lộ trình CNH, HĐH, đảm bảo tính cân đối tổng thể giữa phát triển cơ sở hạ tầng với sự phát triển của các ngành kinh tế và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

- Bên cạnh tiếp tục gia tăng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, Nhà nước cần có chính sách, giải pháp thực sự có tác dụng khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng với những hình thức phù hợp và những điều kiện ưu đãi. Đặc biệt, cần coi trọng hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong xây dựng và phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở.

- Nhanh chóng khắc phục những vấn đề lớn:

+ Giải quyết tình trạng thiếu năng lượng bằng các giải pháp: Tăng đầu tư cho các nguồn năng lượng ngoài thuỷ điện và cải thiện hệ thống phân phối; Khuyến khích đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước; Xây dựng một môi trường điều tiết minh bạch và hiệu quả hơn để tạo động cơ và sự an tâm cho các nhà đầu tư tư nhân.

+ Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư công cho phát triển cơ sở hạ tầng. Chính phủ cần có một cơ quan độc lập có nhiệm vụ đánh giá, thẩm định một cách toàn diện và khách quan các dự án có quy mô lớn, có vai trò quan trọng và những kết luận đánh giá, thẩm định cần được công bố công khai. Đồng thời, trong triển khai cần đảm bảo chất lượng và đúng tiến độ.

+ Cần có chính sách khuyến khích tư nhân tham gia phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là phát triển cơ sở hạ tầng ở các địa phương, những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Do vậy, cần minh bạch hoá các quy định về đất đai: Xoá bỏ hoàn toàn cơ chế xin

- cho bằng cơ chế đấu thầu công khai quyền sử dụng đất; áp dụng chính sách thuế bất động sản để nhằm ngăn chặn hành vi đầu cơ và khuyến khích chủ sở hữu bất động sản sử dụng chúng vào mục đích sản xuất kinh doanh và sinh lời.


+ Nhà nước cần có chính sách đầu tư thoả đáng cho các thành phố lớn, các trung tâm đô thị nhằm phát triển hạ tầng cơ sở, tạo sức hút đầu tư cũng như ảnh hưởng lan toả đến các khu vực lân cận.

Tóm tắt chương 3

Trong chương 3, luận án đã khái quát về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta. Từ những thành tựu và hạn chế của CNH, HĐH ở Việt Nam, luận án đã phân tích những mặt được và những mặt hạn chế về vai trò của Nhà nước. Chính điều đó đặt ra yêu cầu phải đổi mới và nâng cao hiệu lực vai trò của Nhà nước đối với CNH, HĐH trong bối cảnh mới với những khó khăn và thách thức mới khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu hoá.

Từ những điểm tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đài Loan khi tiến hành CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế, luận án đã luận giải khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế của Đài Loan vào điều kiện nước ta hiện nay. Đó là các bài học: i) Lựa chọn mô hình CNH, HĐH rút ngắn gắn với việc phát huy lợi thế so sánh và phát triển kinh tế tri thức; ii) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và thực hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội tạo động lực huy động các nguồn lực đa dạng trong dân cư và nước ngoài cho CNH, HĐH; iii) Chính sách đa dạng hoá trong huy động vốn cho CNH, HĐH; iv) Chú trọng phát triển khoa học - công nghệ nhằm khuyến khích và đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ công nghệ và nâng cao trình độ công nghệ quốc gia; v) Đổi mới chính sách phát triển nguồn nhân lực; và vi) Cần có chính sách và biện pháp mang tính đột phá trong phát triển cơ sở hạ tầng. Đó là những kinh nghiệm mà Việt Nam hoàn toàn có thể vận dụng để đẩy nhanh CNH, HĐH.


KẾT LUẬN

Thực tiễn CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở một số quốc gia và lãnh thổ cho thấy, nhà nước có vai trò rất quan trọng, nhiều khi mang tính quyết định sự thành công của CNH, HĐH mà Đài Loan là một điển hình.

Nghiên cứu đề tài: “Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam”, luận án có những đóng góp sau:

- Thứ nhất, luận án đã làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế với việc định hướng chiến lược và có các chính sách thực hiện những mục tiêu và bước đi trong CNH, HĐH.

- Thứ hai, luận án đã phân tích làm rõ vai trò của nhà nước Đài Loan đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế và rút ra 7 bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế của Đài Loan: i) Nhà nước cần chủ động nắm bắt thời cơ và lựa chọn thời điểm thích hợp điều chỉnh chiến lược CNH, HĐH; ii) Nhà nước cần thực hiện vai trò gắn kết quá trình CNH, HĐH với phát triển kinh tế thị trường; iii) Nhà nước cần có chính sách đa dạng hóa các nguồn vốn, mở rộng các công cụ huy động vốn cho CNH, HĐH; iv) Nhà nước phải thực sự coi khoa học - công nghệ là động lực cho sự phát triển và có các chính sách khuyến khích phát triển khoa học - công nghệ, đặc biệt là các ngành công nghệ cao; v) Nhà nước cần đặc biệt chú trọng chính sách phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, nhất là phát triển nguồn nhân lực trình độ cao để đẩy nhanh tiến trình hiện đại hoá; vi) Nhà nước đóng vai trò quyết định trong phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở; và vii) Nhà nước cần có chính sách ngăn ngừa, hạn chế và giảm thiểu tác hại của tình trạng ô nhiễm môi trường ngay từ giai đoạn đầu công nghiệp hoá.


- Thứ ba, luận án đã luận giải, làm rõ khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà nước Đài Loan đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế, đó là: Lựa chọn mô hình CNH, HĐH rút ngắn gắn với việc phát huy lợi thế so sánh và phát triển kinh tế tri thức; Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và thực hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội tạo động lực huy động các nguồn lực đa dạng trong dân cư và nước ngoài cho CNH, HĐH; Chính sách đa dạng hoá trong huy động vốn cho CNH, HĐH; Chú trọng phát triển khoa học - công nghệ nhằm khuyến khích và đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ công nghệ và nâng cao trình độ công nghệ quốc gia; Đổi mới chính sách phát triển nguồn nhân lực; Cần có chính sách và biện pháp mang tính đột phá trong phát triển cơ sở hạ tầng.

Luận án đề xuất một số kiến nghị để tăng thêm tính khả thi trong việc vận dụng những kinh nghiệm về vai trò của nhà nước Đài Loan đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế với nước ta hiện nay:

Một là, cần xây dựng Nhà nước mạnh, hiện đại có đủ năng lực làm tốt vai trò của mình trong CNH, HĐH:

- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính sâu rộng hơn, triệt để hơn; đồng thời phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng Bộ, ngành; giữa Nhà nước trung ương và chính quyền địa phương trong cơ chế vận hành nền kinh tế.

- Tiếp tục đổi mới đội ngũ cán bộ, chú trọng xây dựng một đội ngũ các chuyên gia kỹ trị, các nhà hoạch định chính sách thực sự tài năng.

- Gắn cải cách kinh tế với cải cách chính trị, thực hiện dân chủ hoá đời sống chính trị - xã hội hướng tới hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hai là, tăng thêm tính hiệu quả trong công tác chỉ đạo điều hành của Nhà nước đối với CNH, HĐH:


- Cần chú trọng tính khoa học và hiệu quả trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong quy hoạch ngành và vùng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế và phát huy tốt lợi thế so sánh.

- Nhà nước cần nhanh chóng ổn định môi trường kinh tế vĩ mô để giảm thiểu những nhân tố bất ổn định gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, cần chú trọng phát huy động lực của kinh tế thị trường đến phân bổ và sử dụng nguồn lực trong CNH, HĐH; cần nhanh chóng khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và thất thoát, lãng phí trong đầu tư.

- Chú trọng CNH, HĐH với mục tiêu tăng trưởng bền vững. Nghĩa là phải quan tâm nhiều hơn đến chất lượng của sự tăng trưởng. Nó được nhìn nhận trên các giác độ kinh tế - kỹ thuật - xã hội - môi trường.

Tóm lại, trong xu thế cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, khi làm tốt chức năng định hướng và điều hành, Nhà nước sẽ trở thành nhân tố vô cùng quan trọng mang lại thành công trong CNH, HĐH đất nước.

Xem tất cả 227 trang.

Ngày đăng: 08/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí