Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 24


+ Nhà nước cần hỗ trợ các DNVVN tìm kiếm và mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước.

+ Khuyến khích tạo mối liên kết giữa các doanh nghiệp lớn và DNVVN để bổ sung hỗ trợ lẫn nhau.

+ Khuyến khích sự phát triển các làng nghề; khuyến khích loại hình kinh doanh công nghiệp, dịch vụ ở các vùng nông thôn.

Việc khuyến khích DNVVN phát triển sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH đồng thời tạo điều kiện giải quyết các vấn đề xã hội, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá.

- Ngoài ra, việc tiếp tục thực hiện các chính sách nhằm gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; tạo cơ hội cho mọi người dân trong việc tìm việc làm, tăng thu nhập thông qua việc tăng cường và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo; gia tăng phúc lợi xã hội cho mọi tầng lớp nhân dân cũng chính là nhằm thực hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội tạo động lực huy động các nguồn lực cho CNH, HĐH.

Để giải quyết những vấn đề trên cần có những bước đột phá trong cải cách hành chính để cải cách diễn ra sâu rộng và triệt để hơn. Từ đó tạo lập bộ máy nhà nước dịch vụ hỗ trợ mạnh mẽ sự phát triển kinh tế của cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó, trong hệ thống quản lý của nhà nước cần đẩy mạnh phân cấp nhiều hơn quyền lực kinh tế cho chính quyền địa phương. Nhà nước trung ương chủ yếu tập trung vào công tác định hướng chiến lược, ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế đối ngoại trong nền kinh tế mở. Trên cơ sở đó, các địa phương sẽ phát huy tốt hơn tính chủ động trong đầu tư phát triển, sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực của mình.

3.3.3. Chính sách đa dạng hoá trong huy động vốn cho CNH, HĐH

Vấn đề huy động vốn cho đầu tư phát triển giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong CNH, HĐH và việc hoạch định chính sách huy động vốn trong nền kinh tế


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy, nguồn vốn cho đầu tư phát triển phụ thuộc rất lớn vào các chính sách kinh tế của nhà nước. Đối với một nền kinh tế đang phát triển trong quá trình CNH, HĐH, một mặt chính sách của nhà nước cần hướng vào mục tiêu khuyến khích đầu tư trong nước, mặt khác cần phải có chính sách để khơi thông dòng chảy vốn đầu tư từ bên ngoài.

Từ kinh nghiệm Đài Loan cho thấy, để thực hiện thành công công nghiệp hoá cần phải có chiến lược tạo vốn, có chính sách, giải pháp phù hợp nhằm huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển và đặc biệt là thực hiện tự do hoá các dòng đầu tư và tài chính. Bên cạnh đó, cần giải quyết hợp lý tương quan giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài. Nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế đóng vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế bởi vì sự chi viện, bổ sung từ bên ngoài dù là đi vay, viện trợ hay đầu tư từ nước ngoài cũng chỉ là tạm thời. Vốn ODA hay vốn vay cuối cùng vẫn phải trả. Vốn FDI cũng chỉ là nguồn bổ sung và hơn nữa bao giờ cũng phải có nguồn vốn đối ứng từ trong nước để tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài.

Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 24

Bước sang giai đoạn đẩy nhanh CNH, HĐH thì nhu cầu về vốn đầu tư của Việt Nam sẽ ngày càng tăng lên. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, vốn trong dân hiện còn rất lớn chưa được khai thác, huy động. Nguyên nhân một phần là do hệ thống tài chính ở nước ta còn nhiều mặt hạn chế, chính sách khuyến khích đầu tư còn nhiều bất cập, hoạt động đầu tư từ ngân sách còn kém hiệu quả. Hơn nữa, khi Việt Nam hoàn tất việc gia nhập WTO thì cơ hội để tiếp cận nguồn vốn lớn từ nước ngoài ngày càng hiện hữu rõ nét. Với xu hướng tự do hoá di chuyển các nguồn lực thì dòng vận động của nguồn vốn sẽ hướng đến chỗ nào mà chúng có điều kiện phát huy tác dụng cao nhất và sinh lợi nhiều nhất. Điều đó cho thấy, vấn đề quan trọng nhất là cần có chính sách đúng để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài. Muốn vậy, điều kiện tiên quyết là phải tự do hoá các kênh lưu thông vốn vào Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, việc tự


do hoá các kênh lưu thông vốn lại chứa đựng những rủi ro khó có thể lường trước, đặc biệt khi hệ thống tài chính - tiền tệ của nước ta còn nhiều hạn chế, chưa tạo lập được một cơ cấu vững chắc.

Nói tóm lại, Nhà nước phải thực sự coi trọng vấn đề huy động vốn cho đầu tư phát triển, trong đó phải tuân thủ quan điểm vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. Nguồn vốn trong nước không chỉ có vai trò quyết định ở ý nghĩa lâu dài mà còn là điều kiện không thể thiếu để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài. Cụ thể:

- Với nguồn vốn trong nước:

Trước hết, nhà nước cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý ngân sách:

+ Cải cách chính sách thuế theo hướng khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nuôi dưỡng nguồn thu; mở rộng phạm vi và đối tượng nộp thuế. Giảm tồn đọng thu ngân sách nhà nước, hạn chế và chấm dứt hiện tượng chiếm dụng nguồn thu của ngân sách.

+ Việc phát hành trái phiếu Chính phủ ở thị trường trong và ngoài nước, phát hành trái phiếu của các địa phương cũng cần được khuyến khích nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các tầng lớp dân cư cho đầu tư phát triển.

+ Thời gian gần đây, chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã có tác dụng thu hút một nguồn vốn khá lớn từ khối những nhà đầu tư tư nhân và những nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn còn khá nhiều bất cập, nhất là trong quá trình cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn. Do vậy, nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý về cổ phần hoá như vấn đề định giá doanh nghiệp, vấn đề xác định vốn điều lệ, về cổ đông chiến lược nước ngoài… nhằm nâng cao hiệu quả của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên tinh thần vừa thu về nguồn vốn cho ngân sách nhà nước, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thêm nguồn vốn cho đầu tư phát triển.


+ Nhà nước cần có cơ chế, chính sách rõ ràng, minh bạch nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tránh hiện tượng đầu tư dàn trải, lãng phí, đặc biệt là trong đầu tư xây dựng cơ bản. Trong thời gian trước mắt cần rà soát và có chính sách, biện pháp xử lý kịp thời đối với những dự án, công trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước bị chậm tiến độ, kéo dài quá lâu, hiệu quả thấp hoặc thiếu luận chứng kinh tế - kỹ thuật thuyết phục.

Thứ hai, bên cạnh các chính sách khuyến khích đầu tư tư nhân, nhà nước cần tập trung đổi mới chính sách tiền tệ và phát triển hệ thống tài chính nhằm nâng cao tỷ lệ tiết kiệm nội địa, kích thích đầu tư phát triển. Cụ thể:

+ Nhà nước có chính sách xây dựng và phát triển thị trường tài chính, đồng thời tạo những tiền đề cơ bản cho thị trường này hoạt động theo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh.

+ Xây dựng và phát triển thị trường vốn trung và dài hạn bằng cách thành lập, khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức tín dụng phi ngân hàng như công ty tài chính, các quỹ đầu tư... và phát triển thị trường chứng khoán.

+ Nâng cao năng lực quản lý của ngân hàng nhà nước thông qua việc sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, đồng thời tạo dựng các điều kiện cần thiết để tiếp tục tự do hoá lãi suất, nâng cao dự trữ ngoại tệ, hình thành đồng bộ khung khổ pháp lý cho hoạt động tín dụng. Đặc biệt, ngân hàng nhà nước cần có cơ chế, chính sách linh hoạt có khả năng kiểm soát lạm phát nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững.

- Với nguồn vốn nước ngoài:

Trước hết, cần tiếp tục chú trọng thu hút FDI. Trong điều kiện nước ta lao động dư thừa, thiếu việc làm, trình độ khoa học - công nghệ còn thấp thì nhà nước cần định hướng và hoạch định chiến lược thu hút FDI vào từng lĩnh vực kinh tế, từng ngành kinh tế. Thời gian qua, trong thu hút FDI vào Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề bất cập nảy sinh. Do vậy, Việt Nam cần có những giải pháp


mạnh mẽ hơn để trở thành khu vực hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, điều quan trọng là cần tích cực cải thiện môi trường đầu tư:

+ Hoàn chỉnh luật pháp, đơn giản hoá thủ tục hành chính và bảo đảm thực hiện nghiêm minh, thống nhất, thực hiện tốt các ưu đãi về thuế, tín dụng đối với các đối tác đầu tư. Thực tế, Nhà nước ta đã có sự đổi mới mạnh mẽ trong việc cấp phép đối với các dự án đầu tư có vốn nước ngoài khi cho phép chính quyền cấp tỉnh được cấp phép đối với một số dự án cụ thể. Đặc biệt, việc ban hành Luật Đầu tư (2005) đã xoá bỏ sự phân biệt giữa hoạt động đầu tư của những nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài nhưng trong thực tế, ở một số địa phương vẫn còn nhiều chính sách không nhất quán, còn rào cản đối với hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy, Chính phủ cần có sự chỉ đạo và kiểm tra việc thực thi pháp luật cùng những quy định của Nhà nước, các cơ quan bộ, ngành trong hoạt động quản lý nhà nước đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ở các địa phương để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời.

+ Chú trọng hơn đến tiến trình triển khai dự án, nâng cao tỷ lệ vốn đầu tư đưa vào thực hiện. Thực tế, ở Việt Nam thời gian qua thu hút đầu tư nước ngoài đã có bước phát triển đột phá, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện còn khá hạn chế (năm 2007, tỷ lệ này chỉ đạt khoảng 30%). Nguyên nhân của tình trạng này là do Việt Nam vẫn còn thiếu nhiều yếu tố, cả về mặt thủ tục và đặc biệt là những bất cập về hạ tầng cơ sở, thiếu hụt nguồn nhân lực kỹ thuật và quản lý. Do vậy, Nhà nước cần có chính sách và giải pháp khắc phục những mặt hạn chế này nhằm gia tăng tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký.

+ Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư. Hiện nay, khi sự cạnh tranh giữa các nước trong thu hút FDI ngày càng trở nên gay gắt thì hoạt động xúc tiến đầu tư ngày càng trở nên quan trọng. Do vậy, Nhà nước cần tiếp tục mở rộng và phát triển hoạt động xúc tiến đầu tư, tăng cường giới thiệu, quảng bá về những tiềm năng, về môi trường chính sách thuận lợi, về cơ hội đầu tư cho những nhà đầu tư


nước ngoài… thông qua hệ thống các cơ quan nhà nước ở nước ngoài và thông qua hệ thống truyền thông trên thế giới.

Về lâu dài, mục tiêu và các chính sách thu hút FDI của Việt Nam cần được điều chỉnh theo hướng khuyến khích những dự án FDI công nghệ cao, khai thác những lợi thế so sánh cấp cao, kiểm soát và hạn chế những dự án FDI chỉ thuần tuý tập trung khai thác lợi thế vốn có về lao động giá rẻ, về thị trường tiêu thụ tại chỗ và gây ô nhiễm môi trường nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Như vậy, việc thu hút FDI từ TNCs hàng đầu thế giới là một định hướng vô cùng quan trọng cần được chú ý đặc biệt.

Ngoài thu hút FDI, nhà nước cần có các chính sách và biện pháp nhằm tranh thủ các khoản ODA và các khoản vay ưu đãi từ các tổ chức kinh tế quốc tế và chính phủ các nước. Đồng thời, cần tạo cơ chế, chính sách để tăng tốc độ giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này, tránh hiện tượng lãng phí. Tuy nhiên, nhà nước cần định hướng việc sử dụng viện trợ như là nguồn hỗ trợ cho tăng trưởng và phát triển. Các ưu tiên về viện trợ cần hướng vào tăng trưởng kinh tế, trước hết để đáp ứng các nhu cầu quan trọng nhất hiện nay. Vốn ODA cần được sử dụng như là biện pháp thúc đẩy xuất khẩu, đầu tư và tiết kiệm, hạn chế nhập khẩu những hàng hoá đang và có thể sản xuất trong nước.

Thị trường chứng khoán Việt Nam mới hình thành và phát triển trong vài năm gần đây nhưng đã có bước phát triển mạnh và thu hút một lượng khá lớn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh chính sách nhằm tạo điều kiện cho nguồn vốn này được hiện thực hoá ở thị trường chứng khoán và có chính sách quản lý hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán ổn định, bền vững và hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả tiêu cực của dòng vốn đầu tư nước ngoài qua cổ phiếu, trái phiếu.


Ngoài những giải pháp trên, vấn đề có thể coi là quan trọng bậc nhất, quyết định sự thành công cũng như hiệu quả của chính sách huy động vốn chính là cần phải phát triển và củng cố hệ thống tài chính - ngân hàng. Việc có một cấu trúc tài chính mạnh sẽ tạo điều kiện cho việc tiến hành các bước đi quyết định trong tiến trình tự do hoá các dòng đầu tư và tài chính.

3.3.4. Chú trọng phát triển khoa học - công nghệ nhằm khuyến khích và đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ công nghệ và nâng cao trình độ công nghệ quốc gia

Kinh nghiệm của Đài Loan cho thấy, việc thu hẹp khoảng cách đối với các nước phát triển và tham gia có hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế chỉ có thể thực hiện được thông qua việc tăng cường năng lực công nghệ quốc gia bằng con đường du nhập, tiếp cận, làm chủ công nghệ và tiến tới tự sáng tạo công nghệ mới. Điều này phụ thuộc rất lớn vào chính sách phát triển khoa học - công nghệ của nhà nước.

Thực tế, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố đầu vào (vốn và lao động) là những nguồn lực có giới hạn. Trong khi đó, đối với những yếu tố về năng suất, ngoài sự đóng góp của cơ chế và chính sách thì vai trò của khoa học - công nghệ là rất lớn. Do vậy:

- Nhà nước cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách phát triển khoa học - công nghệ, tạo môi trường thể chế thuận lợi cho hoạt động đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ thúc đẩy CNH, HĐH. Cụ thể:

+ Các cơ quan quản lý nhà nước về khoa học - công nghệ cần cụ thể hóa, thể chế hóa Chiến lược phát triển khoa học công nghệ. Xây dựng hành lang pháp lý phù hợp với điều kiện mới với yêu cầu phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của khoa học - công nghệ.

+ Nhà nước cần tạo điều kiện rộng rãi hơn nữa cho các doanh nghiệp chủ động trong hoạt động đổi mới công nghệ. Vai trò của Nhà nước không chỉ dừng lại ở việc định ra các khung khổ pháp lý mà còn phải thực hiện chức năng định


hướng, kiểm soát đối với các sản phẩm khoa học - công nghệ khi đưa vào sản xuất vì nó có liên quan tới những vấn đề kinh tế - xã hội khác như môi sinh, môi trường, quyền sở hữu trí tuệ…

+ Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý và tổ chức hoạt động khoa học - công nghệ; Cần nhanh chóng hoàn thiện cơ chế, chính sách để chuyển các tổ chức khoa học - công nghệ sang chế độ tự chủ. Trong đó đặc biệt chú ý hai vấn đề lớn là tài chính và nhân sự; Cần có chính sách hỗ trợ cho ứng dụng công nghệ cao, cho công tác nghiên cứu ứng dụng góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

+ Nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện thị trường công nghệ ở Việt Nam. Để thực hiện điều đó cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường khoa học - công nghệ; kiên quyết thực hiện bảo vệ sở hữu trí tuệ, có chế tài xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ; bảo hộ, khuyến khích việc sử dụng những giải pháp, sáng chế mới. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

- Trong chính sách phát triển khoa học - công nghệ cũng cần chú ý một vấn đề hết sức quan trọng là vai trò của TNCs. Thực tế cho thấy, không phải chính phủ hay các trường đại học mà là TNCs đóng vai trò là nguồn cung cấp tri thức và công nghệ quan trọng nhất cho các nền kinh tế. Hoạt động đầu tư của TNCs thường gắn với việc chuyển tải tri thức và công nghệ, với trình độ quản lý và tiếp cận thị trường quốc tế cao nhất. Do vậy, Việt Nam cần hết sức chú trọng ưu tiên thu hút đầu tư từ TNCs, cần coi đó là một chủ trương có tính chiến lược, là cách thức cơ bản để nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ và năng lực cạnh tranh quốc gia.

3.3.5. Đổi mới chính sách phát triển nguồn nhân lực

Trong CNH, HĐH, yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động đòi hỏi phải có lực lượng lao động có kỹ năng, có trình độ. Kinh nghiệm Đài Loan cho thấy, nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng nhất

Xem tất cả 227 trang.

Ngày đăng: 08/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí