màu chua chát, đắng cay: “Có đam mê nào giá rẻ không em ?…- có yêu đương nào giá rẻ không em?”(Chợ) nhưng trong sâu thẳm của nỗi niềm ấy là khao khát được sống thật mình, nên thơ Nguyễn Duy kết tinh thêm một tầng ý nghĩa mới mang tính triết lý. Tâm sự hồn hậu trước đó giành chỗ cho một nỗi lòng quằn quại, có lúc cô độc, không phải cái cô độc của con người trong thời đại (giống như nỗi niềm của con người trong Thơ Mới) mà cô độc của một thời đại trong một thời đại - thời đại tác giả được nuôi dưỡng và thời đại tác giả dựng xây. Chính vì sự cô độc đó mà nhà thơ có phút lắng lại nhìn cuộc sống và nhận ra biết bao điều tưởng như trái ngược, vô lý mà lại hiển nhiên tồn tại:
Toác khói cháy nổ tởn Trận mạc nào đi qua Có một người nạng gỗ Ngồi bên sông nhớ nhà
( Pháo tết ).
Nguyễn Duy có chút gì giống với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp trong phương pháp chữa bệnh cho cuộc sống là :dùng thanh sắt nung đỏ để chữa trị những vết thương. Đau đớn lắm, nhưng cái cuối cùng lại có hậu- dù đó mới chỉ là khao khát - bằng những trang sách - chữa khỏi những căn bệnh của xã hội đương thời.
Thơ Nguyễn Duy cả trước và sau đổi mới đều mang đến cho người đọc những xúc cảm sâu lắng, bởi một điều giản dị là tác giả viết bằng một tấm lòng chân thật, bộc bạch hết mình cái tôi chân quê, cái tôi phục cổ ( Phục - khôi phục và khâm phục). Trong thơ Nguyễn Duy, vừa đậm dấu ấn truyền thống lại vừa thể hiện những cách tân đáng ghi nhớ. Tác giả đã kết hợp hai giá trị này trong thơ mình như là một sự ngẫu nhiên khiến cho mỗi dòng thơ là một hơi thở khá tự nhiên và chân tình đến gan
ruột. Đó là yếu tố quan trong bậc nhất để những thanh sắt nung đỏ đến được với những vết thương cần chữa trị. Và điều tác giả mong đợi là những vết thương sẽ lên da non tiếp sức cho cuộc đời.
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật của nhà thơ Nguyễn Duy:
Trong thơ Nguyễn Duy gần như không rõ một tuyên ngôn nghệ thuật nào. Ta cảm như nhà thơ làm thơ để giãi bày những gì đang diễn ra trong hồn cốt mình, có cái hăm hở, có cái lắng sâu, có cả cái “tào lao” như chuyện phiếm…thơ chính là mình, là mình không chút gọt rũa. Chính vì vậy nếu đi tìm một tuyên ngôn nghệ thuật trong thơ ông quả thật không dễ dàng. Nhưng hãy lắng nghe lời “thú nhận” chân thực của ông về “cái nghề thiên phú” này, ta sẽ hiểu được sâu sắc hơn thiên chức của một nghệ sĩ - một nhà thơ.
Có thể bạn quan tâm!
- Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Duy - 1
- Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Duy - 2
- Mối Quan Hệ Giữa Truyền Thống Và Cách Tân:
- Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Duy - 5
- Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Duy - 6
- Truyền Thống Và Cách Tân Thể Hiện Ở Cái Tôi Trữ Tình Trong Thơ Nguyễn Duy.
Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.
Nguyễn Duy nói : “Có đụng chạm xã hội mới ra cái thần hồn văn chương…Còn nhà văn …thật? ở anh nhà văn thật ấy có một nhà hiền triết, một nhà văn hóa, một nghệ sĩ. Thực ra cái lõi của văn chương là triết. Từ cả những chuyện tầm phào nhất cũng có thể phả triết học vào, có thế mới dội lại được cuộc đời. Chỉ khác nhà triết học trình bày triết học của mình bằng lý lẽ, khoa học, còn nhà văn bằng cảm xúc. Thời buổi hiện đại rồi đâu có phải ai cũng thành nhà thơ được. Làm thơ phải đọc, phải đi đó đi đây, không có kiến thức tổng hợp xã hội sao làm thơ ra cái thời hôm nay?. Để thành một nhà văn lớn ở nước mình khó lắm, phải là một nhà văn hóa lớn, không thâu tóm được tinh hoa văn hóa dân tộcvào một cá thể không thể trở thành một nhà văn hóa lớn!...”. Chỉ bằng từng ấy ngôn từ ta đã hiểu khá trọn vẹn về quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Nguyễn Duy đặt ra cái trách nhiệm tất yếu của người làm thơ là phải đi, phải tìm hiểu – phải dấn thân mới tìm được bản chất cuộc sống, nhất là cuộc sống đầy biến động của hiện tại. Nhưng không phải là bản chất nông cạn ai tìm cũng thấy, mà phải
là bản chất chứa trong đó triết lý của cuộc sống, triết lý của cảm xúc. Thơ Nguyễn Duy giàu triết lý, những triết lý không thuần túy lý lẽ mà được làm nên từ cách lý giải hiện tượng cuộc sống rất tinh tế và thông minh, chen lẫn cảm xúc chân thành, như “Cơm bụi ca”, “Tháp Chàm” “Tiếng hát hòa bình” “Gặp một người lính trẻ”…Có khi triết lý từ những đối tượng tưởng như không thể triết lý: Ti vi, Sida, ly hôn, chứng khóan, cơm bụi… Thơ Nguyễn Duy bắt kịp với thời đại, nói được nỗi niềm của con người thời đại bởi trong quan niệm của nhà thơ luôn đề cao ý thức về thời đại mình đang sống. Không thể chạy theo lối thoát ly riêng mình, thơ phải gắn với cuộc sống, dù cuộc sống ấy thế nào nhà thơ cũng phải đứng vững trên mảnh đất hiện tại. Nguyễn Duy đã ý thức rất rõ thời cuộc, chính vì vậy nhận ra rất rõ nhiệm vụ của một người nghệ sĩ trong thời cuộc hiện tại. Nhà thơ trân trọng và yêu mến truyền thống, song đi vào những giá trị hiện đại lại cũng là một thế mạnh của nhà thơ, nó làm cho thơ ông vừa có cái mềm mại, ngọt ngào của truyền thống, lại vừa có cái linh hoạt, mới mẻ của hiện đại. Chính vì có cái linh hoạt của hiện đại mà trong quan niệm của nhà thơ, nhà văn “có năm bảy loại” và có một loại nhà văn …thật. Nhà văn Thật phải song hành cùng với nhà văn “năm bảy” kia trong một cộng đồng, và có thể ngay trong một con người. Điều quan trọng là giữa hai loại nhà văn này có tồn tại đấu tranh? và nhà văn Thật có khẳng định được giá trị của mình hay không? Nhà văn Thật - đó là nhà văn trước hết phải có sự chủ động trong việc nhập cuộc, vào đời. Nhưng nhà văn – giống như một giá trị tinh thần cao khiết, không thể làm việc dưới sự hối thúc của đồng tiền. Có cực đoan quá chăng khi xem yếu tố tài chính là một động lực không xứng đáng để sáng tạo trong thời hiện đại này? Từ xưa, các cụ đã coi cái tài văn chương là cái tài thiên bẩm, và để xứng với cái thiên bẩm ấy phải là đạo làm người cao khiết, một cốt cách thanh cao, nho nhã…Nguyễn Duy là người “Phục cổ”
thì chẳng lý gì lại có thể phủ nhận một quan niệm đẹp và giàu tính nhân văn của cha ông mình. Một nhà văn phải là một nhà văn hóa lớn! Nguyễn Duy đặt ra nhiệm vụ cho người nghệ sĩ – một nhiệm vụ cả cuộc đời chứ không phải ngày một ngày hai. Và chính ông trên con đường sáng tạo của mình cũng không ngừng trau dồi vốn văn hóa, không chỉ riêng văn hóa dân tộc mình mà văn hóa nhân loại để làm giàu thêm cho tâm hồn và đẹp thêm mỗi trang thơ. Nhưng nhà văn hóa đi kèm ấy không thể là cái gì hiện hữu phô trương mà là trong chiều sâu hiểu đời, hiểu người của nhà thơ. Nguyễn Duy luôn tạo nên cái mới trong thơ bởi ông nhận thức một cách sâu sắc về sự sáng tạo và trách nhiệm của nhà thơ trong thời đại, của một duyên kiếp nặng nợ với văn chương, với cuộc đời. Trong thơ Nguyễn Duy, giá trị nào cũng được thể hiện trong sự kết hợp nhuần nhị giữa cái hiện đại và cái truyền thống, nó đã trả lời thực tế hơn cả cho quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Đó là thơ - sự kết hợp giữa những nỗ lực giữ gìn và tìm kiếm. Đọc thơ Nguyễn Duy người ta luôn có cảm giác như được gặp gỡ hai con người, mới mẻ và truyền thống, nhưng ở tâm hồn nào cũng cuốn hút và gợi suy ngẫm. Đó là cái riêng mà không phải nhà thơ nào cũng tạo dựng được trong thơ mình. Nguyễn Duy với quan niệm nghệ thuật như được rút ruột ra này và bằng những trang thơ đã chứng minh cho lối suy nghĩ nghiêm túc và đầy trách nhiệm về người nghệ sĩ, và ông đã khẳng định được vị thế của mình trong tâm thế của những người từng đọc thơ ông.
Chương 2
TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH TÂN TRONG THƠ NGUYỄN DUY NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRỮ TÌNH.
2.1. Truyền thống và cách tân thể hiện ở cách chiếm lĩnh đề tài.
Đề tài là: Khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm [27]. Khi đã được coi là một tác phẩm văn học thì đương nhiên phải phản ánh một hiện tượng nào đó, dù nhỏ bé hay rộng lớn ngoài đời. Ở mỗi tác giả khác nhau có một cách phát hiện, tiếp cận và xử lý đề tài riêng biệt.
Đề tài quê hương đất nước và đề tài chiến tranh là hai mảng đề tài lớn, có tính bao trùm các đề tài nhỏ, được các tác giả trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ quan tâm, tìm tòi, khai thác. Nhà thơ Nguyễn Duy cũng không khác lớp người thời mình, hai đề tài quen thuộc đã bước vào thơ nhưng với những thanh sắc riêng, tạo nên một Nguyễn Duy chân quê mà lại độc đáo, mới lạ. Đó chính là sự kết hợp nhuần nhị giữa những giá trị truyền thống và cách tân trong cách biểu hiện đề tài của ông.
2.1.1. Đề tài quê hương đất nước.
Không đi tìm định nghĩa về đất nước, không lý giải đất nước bằng một truyền thuyết nên thơ nào, Nguyễn Duy yêu đất nước quê hương mình từ sự gắn bó bền bỉ, gốc gác máu thịt. Ông nhận thấy được bản chất của quê hương đất nước nằm ở con người, con người làm nên mọi giá trị vật thể và phi vật thể, ở điều này ta thấy Nguyễn Duy giống với Nguyễn Khoa Điềm:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
(Đất nước)
Nhà thơ không viết trực tiếp về tình yêu đất nước, không ca ngợi đất nước, mà thông qua cách viết về con người, mà cụ thể là những người thân yêu: bà, cha mẹ, vợ, em, đồng đội …, những con người gắn bó với cuộc đời tác giả như chính quê hương đất nước - để thấy được một góc thiêng liêng mà không xa lạ của thơ ông. Đất nước quê hương là con người, là một nhân vật trữ tình hối thúc cảm hứng, lúc nào cũng hiện hữu, ngự trị trong tấm lòng và tâm hồn của tác giả. Đất nước, quê hương được coi là nguồn cội:
Từ dòng sông ấy
tôi đi
Giọt nước từ nguồn ra biển cả
Mát suốt đời tôi gió nồm sông Mạ Mẹ và em sinh thành ở đó
Quê nhà và tình yêu của tôi
( Dòng sông mẹ)
Nguyễn Duy nhớ về quê hương, viết về quê hương là viết về vùng quê, nơi ông sinh ra, cũng là nơi “mẹ và em sinh thành ở đó”. Có lúc được gọi thành tên: sông Mạ, cầu Bố, Thanh Hóa, Đò lèn …, có lúc chỉ là một “nơi ấy” ngắt lặng nỗi nhớ và tình yêu thương:
Nơi ấy
nhá nhem giữa quên và nhớ đỉnh nuí hiện lên bóng bà và mẹ Mây chiều hôm gánh gạo đưa ta
Tất tưởi đường xa cầu vồng ráng đỏ”
( Xó bếp)
Ta cảm như ẩn sâu trong yêu thương là nỗi niềm xót xa, như nuối tiếc, như thấy mình có lỗi với những vất vả, nhọc nhằn. Và tất cả đã bất biến như “đỉnh núi”, “mây chiều hôm”, “ như cầu vồng ráng đỏ”. Nó đối lập với “khoảng trống vẫn còn bỏ ngỏ” của tương lai. Tương lai là cái mà cuộc đời hướng tới, xây dựng và hy vọng, song nói như Nguyễn Duy: quá khứ là khởi đầu của mọi đổi thay. Hình ảnh bà và mẹ vẫn là hình ảnh của “con cò lặn lội bờ sông”, không “khóc nỉ non” mà vụt lên đẹp đẽ, vĩ đại, hóa thân vào đường nét của thiên nhiên đất nước một cách tự nhiên như ngàn năm đã là như thế. Bà và mẹ hướng tới con cháu mình đang lên đường ra mặt trận bảo vệ Tổ Quốc, có phải vì thế mà Nguyễn Duy viết về đất nước quê hương là viết về tình cảm của những người mẹ ở khắp mọi miền đất nước. Dù ở đâu, mẹ vẫn mang dáng hình của người sinh ra “ ta”, nuôi dưỡng và chờ “ta”, tác giả viết về mẹ với những tình cảm ấm nồng giản dị như rơm rạ, mái gianh.
Tổ quốc hiện lên không chỉ là giá trị phi vật thể thông thường, cái giá trị tinh thần mà Nguyễn Duy khắc được trên thơ mình đó là tình mẹ. Cái nhìn mới lạ thoát khỏi ca dao hòa vào với cái nhìn thời đại. Người mẹ của Nguyễn Duy có cái gì nhẫn nại chịu thương chịu khó, vừa bươn chải lo toan, vừa mang một nỗi niềm rất riêng của người phụ nữ cổ. Không nói tới những chiến công, chỉ nói về những việc sớm hôm của mẹ, những sự cao cả có khi chỉ ở những việc bình thường, mẹ vẫn hiện lên ngang tầm đất nước. Đọc “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” ta nhận thấy: ca dao là một, Nguyễn Duy là hai nói đến cái dáng mẹ trong khoảnh khắc rất hiếm hoi:
Nhìn về quê mẹ xa xăm
Lòng ta chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương
Tác giả mượn câu ca dao để tưởng nhớ đến mẹ, nhưng sự nhắc lại này như kéo ta ùa vào lòng mẹ, bởi thân quen quá, dân dã quá. Cái hơi ấm ổ rơm kia là tấm lòng mẹ, hơi ấm của bốn nghìn năm lúa nước.
Mẹ là đất nước, là lời ru, lời kết tinh từ tâm hồn, từ tình yêu của con người đất Việt. Lời ru tha thiết về những cái thật giản đơn, nhỏ bé, nhưng “ Ta đi trọn kiếp con người cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”. Bởi lời mẹ ru là điệu hồn dân tộc, ngàn vạn kiếp người đã bồi đắp nên và giữ lời ru trong tim, trong trí não. Cái lớn lao của lời ru xuất phát từ chính người cất giữ nó, trân trọng và hiểu giá trị của nó - giá trị của lẽ đời - mà một cuộc đời nhỏ bé làm sao hiểu hết lẽ đời ngàn năm? Có lúc tác giả chợt băn khoăn- sự băn khoăn của con người biết gìn giữ cội nguồn: “ Bà ru mẹ, mẹ ru con, biết mai sau các con còn nhớ chăng?”. Đọc bài “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”, bất kỳ ai cũng xúc động nhớ về mẹ. Câu thơ không chỉ ý nghĩa ở những hình ảnh nó gợi ra, mà cao hơn là giá trị suy tưởng đặt vào lòng người đọc.
Người mẹ trong thơ Nguyễn Duy như được vẽ nên bởi những màu được chiết ra từ đất, từ cây cỏ, từ nước, phong cách bức vẽ đặc chất phương Đông: chỉ phác bắt hồn, không ưa nhiều sắc màu và chi tiết rườm rà. Mẹ bước vào thơ bằng tất cả những nét chân thật đời thường, con người của “ đồng đất quê mình”. Tác giả thường gợi cử chỉ của mẹ, chứ không biểu lộ lời nói đã khiến ta cảm nhận được sự im lặng của tảo tần, sự im lặng chứa cái ngẫm suy dành cho con, lớn hơn nữa là dành cho dân tộc.
Nếu Mẹ là đất nước quê hương ở phần yêu thương, chứa cái nhìn âu yếm và tác giả như có lỗi với những nhọc nhằn thì đến cha - ta bắt gặp niềm tự hào của người con, một niềm tự hào cũng hết sức giản dị. Cha đồng hiện với lịch sử, với những hình ảnh mạnh mẽ hơn, thoáng đãng hơn:
Nhà tôi đó…không cổng và không cửa Ai ghé qua cứ việc hút thuốc lào