Một Số Thể Thơ, Truyền Thống Và Cách Tân.

cuộc sống ồn ào, phức tạp, sôi động và có phần trục trặc, gân guốc thời hậu chiến. Theo nội dung đề tài, chúng tôi bỏ qua thể trường ca và tập trung vào các thể thơ khác đã được đề cập ở trên.

3.3.2 Một số thể thơ, truyền thống và cách tân.

Sau chiến tranh, các thể thơ ca truyền thống vẫn tiếp tục xuất hiện, phát triển và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống thể loại thơ ca Việt Nam. Tất nhiên, các thể thơ ca này không hoàn toàn được viết như cũ mà đã có những cách tân đáng kể để thể hiện thế giới tinh thần phức tạp của con người hiện đại và nhu cầu đổi mới hình thức của thơ ca đương đại.

3.3.2.1. Thơ tự do.

“Hình thức cơ bản của thơ phân biệt với thơ cách luật ở chỗ không bị ràng buộc vào các quy tắc nhất định về số câu, số chữ, niêm đối. Nhưng thơ tự do lại khác thơ văn xuôi ở chỗ nó có phân dòng và sếp song song thành hàng, thành khổ như những đơn vị nhịp điệu, có thể có vần.

Thơ tự do là thơ phân dòng nhưng không có thể thức nhất định. Nó có thể hợp thể, phối xen các đoạn thơ làm theo các thể khác nhau, hoặc hoàn toàn tự do” (22- tr 271).

Sau chiến tranh thơ tự do đóng vai trò chủ đạo trong thơ.Thơ tự do xuất hiện từ nhu cầu đòi hỏi thơ đi sát cuộc đời hơn, phản ánh được những khía cạnh mới của cuộc sống đa dạng, thể hiện những cách nhìn nghệ thuật mới của nhà thơ. Theo kết quả thống kê của tác giả Phạm Quốc Ca qua Tuyển tập thơ Việt Nam 1975-2000, thơ tự do chiếm cao nhất: 654/1144 bài(56%). Cũng theo kết quả thống kê của nhà nghiên cứu Lê Lưu Oanh, tỉ lệ các bài thơ với câu thơ tự do chiếm giải trong các giải thưởng là tỉ lệ chiếm ưu thế tuyệt đối. Giải thưởng báo Văn nghệ 1981-1982 có 7/12 bài, chiếm tỉ lệ gần 60%. Giải thưởng báo Văn nghệ 1989-1990 có 8/13 bài, tỉ lệ 61,6%. Giải thưởng thơ tạp chí Văn nghệ quân đội 1989-1990 có 5/7 bài, chiếm tỉ lệ 70%. Câu thơ tự do bao trùm

tất cả các thể loại khác, kể cả trường ca, thơ ngắn hay thơ văn xuôi.( 56- tr 158).

Câu thơ tự do được sử dụng rất linh hoạt. Có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các dòng, từ tuỳ thuộc vào sự biểu hiện và diễn đạt. Câu thơ tự do chiếm ưu thế trên thi đàn với tính năng động, co duỗi tự nhiên, ít lệ thuộc vào vần, vào hoà thanh và nhịp cố định. Người làm thơ sẵn sàng làm thơ không vần, cắt nhịp không đều đặn để giữ được ý.

Thơ tự do khá tự nhiên trong dĩên đạt ý tưởng do không bị câu thúc bởi các yếu tố vận luật. Con chim quyên lỡ vận- Lang thang trên mặt đất- Tiếng kêu sao nghẹn ngào- ta đã phí hoài quá nhiều sức lực- Gót chân mòn những bước không đâu(Thanh Thảo). Đặc biệt. Khả năng vận dụng tính phóng túng của câu thơ tự do giúp câu thơ Nguyễn Quang Thiều thực hiện những cuộc phiêu lưu mê đắm vào các ý tưởng, vào cõi tâm linh mang chiều sâu của văn hoá dân gian. “Thức đậy từ những cơn mơ, cả cúc áo cũng không cài hết- Cả tóc cũng không kịp buộc, không kịp cả dặn dò- Tôi và em chạy về từ hai miền xa lạ- qua những cánh đồng, cỏ bần bật run lên(Dòng sông). Nguyễn Quang Thiều đã đổi mới thơ bằng cách tạo nên những câu thơ giàu biểu tượng, giàu liên tưởng khác lạ, thay đổi diện mạo câu thơ, nhịp thơ và đặt các sự vật, hình ảnh khác xa nhau trong mối tương quan gần nhau nhằm tạo nên những bất ngờ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Câu thơ tự do coi trọng về ý, ít chú ý về từ. Nhà thơ coi trọng kết cấu tiềm ẩn của câu thơ tạo nên ý, tức chú ý tạo thông tin. “Con thuyền đi qua-Để lại sóng- Đoàn tàu đi qua- để lại tiếng- đoàn người đi qua- để lại bóng- tôi không đi qua tôi- để lại gì?(Văn Cao). Bài thơ Mười phút với Nguyễn Tuân của tác giả Thế Hùng cũng viết theo lối này:Nào Hùng, cậu là hoạ sĩ? Thưa bác, vâng. Cậu thích vẽ gì?- Thưa bác, cháu thích vẽ hoa và thiếu nữ. Nhà văn lặng im…năm phút…mười phút…píp thuốc tàn trên tay- “đã bao giờ cậu vẽ người ăn mày?”

Câu thơ tự do dài ngắn khác nhau có khả năng diễn tả nhịp điệu tâm hồn phức tạp. Đặc biệt, trong dòng chảy triền miên cuả suy tưởng chúng ta thường gặp ở những câu thơ dài, sự xuất hiện bất ngờ của các câu thơ ngắn giống như một sự dồn nén và có khả năng tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn- Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím- Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến- Vì sóng đã làm anh- nghiêng ngả- Vì em(Hữu Thỉnh). Cách chia khổ trong thơ tự do cũng khá độc đáo, không cần có sự cân đối về dung lượng giữa các khổ với nhau(Sự sống- Giáng Vân). Có khi một hoặc hai câu thơ được tách riêng thành một khổ tạo sự lắng đọng trong cảm xúc. Chẳng hạn bài thơ Đứa con của đất của Inrasara:

Cảm hứng thế sự đời tư trong thơ Việt Nam 1975-2000 - 12

….Tôi đánh rơi thế giới và tôi lạc mất tôi

Tôi lạc trong điệu buk, câu arya, bụi ớt, trái tim đui Tôi như người bị vứt

Giữa cánh rừng hoang trụi lá màu xanh Rồi tôi ngóc đầu dậy và tôi trườn lên Rồi tôi rứon mình khỏi hố hang quá khứ

Như kẻ bị thương mò tìm lối ra khỏi đống tan hoang thành phố


Tôi tìm lại tôi

Tìm thấy nắng quê hương.

Hai câu thơ “Tôi tìm thấy tôi- Tìm thấy nắng quê hương” đứng thành một khổ như một sự phát sáng của nhận thức con người khi nhận ra chính mình trong mối liên hệ máu thịt của quê hương.

Dung lượng khổ thơ trong thể thơ tự do không tuân theo truyền thống. Trong bài thơ “Từ thế chi ca” của nhà thơ Chế Lan Viên, tác giả chia thành năm khổ, mỗi khổ tương ứng với một phần và có ý nghĩa độc lập như một bài thơ:

I. Anh không thể yêu hoa mãi được

Thiêu xong, anh về các trời khác cũng đầy hoa Chỉ tiếc không có tình yêu ở đó

II. Anh thành một nhúm xương gio trong bình Em đừng khóc

Ngoài vườn hoa cỏ mọc

III. Cho dù trái đất không còn anh Anh vẫn còn nguyên trái đất Tặng cho mình

IV. Những kẻ nguyền rủa anh rồi sẽ buồn Chả còn anh cho họ giết

Dao sẵn rồi, họ không dễ để yên

V. Những bạn bè yêu anh sẽ gặp anh

trong cỏ

trong hạt sương trong đá

trong những gì không phải anh


Anh tồn tại mãi Không bằng tuổi tên Mà như tro bụi

Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên.


Mỗi khổ thơ là một cách cảm nhận về cõi chết của nhà thơ Chế Lan Viên. Cách đặt khổ thơ ba dòng như trên giúp cho ý thơ được biểu hiện một cách mạnh mẽ hơn, cứng cáp hơn, và vì thế mà cái chết không trở thành một vấn đề bi thương mà là một nghiệm sinh của con người.

Sự lựa chọn thể thơ tự do cũng là một cách tìm kiếm hình thức phù hợp nhất cho những nội dung thơ mang tính đương đại. Thể thơ này đã

phát huy đựoc các giá trị của nó khi tạo dựng được những cảm xúc thẩm mỹ mạnh mẽ, gân guốc, dữ dội, gấp gáp và đầy suy tư của con người hiện đại. Tuy nhiên, ở một góc độ nào đó, lạm dụng lối viết này sẽ đánh mất chất nhạc vốn là một yếu tố có ý nghĩa đặc trưng của thể loại. Bên cạnh đó, nhiều người đã lạm dụng lối viết tự do này để diễn tả những ý tưởng ồn ào, lập dị. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm thơ mất đi độc giả của mình.

3.3.2.2. Thơ lục bát.

Cùng với thể lục bát gián thất, theo giáo sư Bùi Văn Nguyên thể lục bát là thể loại có tính ổn định cao nhất trong nghệ thuật thơ ca cổ truyền. Nhưng điều này không có nghĩa là các hình thức đó nhất thiết không bao giờ còn biến dạng nữa.

Lục bát xuất hiện khá nhiều trong thơ Việt Nam đương đại(chỉ đứng sau thể thơ tự do). Thể lục bát được xem là thể thơ mang tính dân tộc cao, “có nguồn gốc sâu xa từ những đặc điểm ngôn ngữ dân tộc, là sự phát triển đến mức hoàn chỉnh của tiếng nói cân đối nhịp nhàng trong tục ngữ”.

Hiện nay, sự trở về với câu thơ lục bát là một biểu hiện cố giữ chất nhạc trong thơ(dù câu thơ 6/8) đang bị phá vỡ. Một số nhà thơ sử dụng thể thơ này một cách có ý thức. Họ đặt tên các bài thơ của mình là Lục bát lỡ nhịp, Lục bát về em, Lục bát khi say, Vần này lục bát, Lục bát về mẹ….Tính chất trong sáng giản dị của lục bát cùng với cái duyên dáng, ngọt ngào, mềm mại của nó(thanh bằng đóng vai trò chủ đạo) phù hợp với những đề tài, chủ đề mang nhiều yếu tố tình cảm như tình yêu, tình mẹ, tình quê hương: Mẹ tôi(Nguyễn Trọng Tạo), Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Về đồng(Nguyễn Duy), Về chơi với cỏ(Hoàng Phủ Ngọc Tường), Mong em về trước cơn mưa (Thu Bồn), Chăn trâu đốt lửa(Đồng Đức Bốn)… Quay về với trạng thái tâm hồn trong sáng, giản dị là một nhu cầu

của con người hiện đại, và lục bát là thể thơ phù hợp để diễn đạt trạng thái này.

Một số bài thơ lục bát thời kỳ này vẫn giữ được chất du dương của lục bát truyền thống nhờ kết hợp hài hoà vần nhịp theo cấu trúc ngữ âm và sử dụng các biện pháp tu từ, đặc biệt là điệp từ điệp ngữ tạo nên sự trùng điệp và âm vang trong giọng điệu thơ. Bài thơ Về đồng của Nguyễn Duy sử dụng cấu trúc câu trùng điệp như một lời nhắn gọi da diết về miền quê yêu thương “Rơm rạ ơi ta trở về đây- Gió sùng sục mùi bùn nằng nặng ngấu”, “Rơm rạ ơi ta ta trở về đây-nắng lóng lánh trong veo mầm mạ trắng”, “Rơm rạ ơi ta trở về đây- ngôi đình cũ mái nhà xưa khuất bóng”Chợ buồn của Đồng Đức Bốn sử dụng điệp từ “chợ buồn” nhấn mạnh các yếu tố có tính nghịch lý: Chợ buồn bán nhớ cho quên, Chợ buồn bán tỉnh cho say, Chợ buồn đem bán những vui

Trong mảng thơ lục bát mang tính truyền thống phải nhắc đến hai tác giả Đồng Đức Bốn và Bùi Giáng. Vẫn giữ các yếu tố mang tính truyền thống của câu thơ lục bát ở thanh điệu, nhịp điệu, âm vận nhưng hai tác giả này đã tạo nên những giá trị mang đậm màu sắc đương đại trong thơ lục bát của mình, đó là trạng thái tâm trạng đầy phiêu linh trong một vỏ ngôn ngữ biến hoá và nhiều màu sắc. Thử đọc một đôi bài thơ, câu thơ lục bát của hai thi sĩ này: “Hỏi tên rằng bể xanh dâu- Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa- Em về rũ áo mù sa- Chút quần phong nhuỵ cho tà huy bay”(Bùi Giáng), “Duyên mình chả bén trầu cau- Thì làm hạt muối ướp đau lòng chờ”, “Cánh hoa sắc một lưỡi dao- Vì yêu tôi cứ cầm vào như không”, “Đừng buông giọt mắt xuống sông- Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm”(Đồng Đức Bốn)…Cách làm thơ lục bát như nhập đồng, phiêu du trong tâm linh của Bùi Giáng hay lối viết thơ lục bát đa cảm , mẫn cảm đến đa mang của Đồng Đức Bốn chứng tỏ rằng lục bát có thể du nhập vào trong thể loại của nó nhiều màu sắc tình cảm phong phú, nhiều cách biểu hiện khác nhau. Và lục bát truyền thống có thể vượt qua

chính sự giản dị có nguyên nhân từ nguồn gốc của nó để thể hiện thế giới cao sang của tinh thần con người.

Tuy nhiên, do nhiều tác động từ các yếu tố nội dung và quan niệm thẩm mỹ thời đại, nhiều bài thơ lục bát thời kỳ này đã phá vỡ tính chất truyền thống, mà theo cách nhận định của nhà nghiên cứu Lê Lưu Oanh là “Sự phá vỡ chất ru ngọt ngào, mê hoặc, trang trọng để tiến tới một giọng điệu tỉnh táo, lý trí, hiện thực và sự phá vỡ hình thức dàn đồng ca để tiến tới dạng tâm sự cá nhân”.(tr 163).

Hình thức của nhiều câu thơ lục bát bị thay đổi, bị cắt dòng và cắt

nhịp.


Chia cho em một đời thơ một lênh đênh

một dại khờ

một tôi Chỉ còn cỏ mọc bên trời

Một bông hoa nhỏ lặng


Thôi đành lỡ chuyện trầu cau Trăm năm

dù có mai sau xin đừng

Khi xưa xe chỉ chắp thừng Bây giờ người hoá người dưng của người

rơi


mưa


dầm


(Nguyễn Trọng Tạo)

(Lục bát lỡ nhịp- Nguyễn Thái Sơn) Sài Gòn. Nên thế vẫn mưa

Em đi trong ướt, nên vừa qua may Em đi. Trong ướt thân gầy,

Hở lưng. Nên phải che đầy bàn tay. Giọt mua. Như thể men say

Chạnh lòng Hà Nội. Một ngày nhẹ tênh… Chợt mưa. Chợt nắng. Bồng bênh

Con cò trắng. Mái lênh đênh giữa đời.

(Sài Gòn- Lê Huy Quang)

Sự thay đổi về dòng thơ, ngôn ngữ là một trong những yếu tố dẫn đến sự thay đổi về giọng điệu trong thể thơ lục bát. Giọng điệu thơ ngọt ngào,

giàu chất ru vỗ về bị phá vỡ. Điều này có thể thấy rất rõ trong thơ Nguyễn Duy:

- Quán cơm âm phủ còn không Cô gì hôm ấy…lấy chồng hay chưa?


- Nghêu ngao hát ngọng nghẹo chơi Người cười nói xúc phạm người ngậm tăm


- Kính thưa thị Đốp đoan trang Mòn mom móm mõ gõ khan mấy người

Thôi mà ngúng ngoẳng nhau chi Già rồi đấy lạy nhau đi là vừa.


- Em ơi gió-gió tuầy huầy Phường ong bướm õng ẹo bay lòng thòng

Nhiều người cho rằng giọng thơ lục bát của Nguyễn Duy là giọng xẩm ngọng. Câu thơ lục bát bị nói hoá, giọng điệu đùa cợt, giễu nhại,

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 03/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí