Đổi Mới Thành Phần Và Cấu Trúc Cú Pháp, Ngữ Đoạn


gọi là “nghệ thuật giật tít”, là làm sao để gây được sự chú ý của người đọc. Dụng ý của tác giả Lê Anh Hoài khi đặt tên tác phẩm Tẩy sạch vết yêu với lời chú ở trang đầu “tập sách này hân hạnh được Công ty chất tẩy rửa TASAVEYE tài trợ” là làm sao để tạo được một cái tên thật “sốc, sến, chuối”. Trang bìa tập truyện ngắnDị bản được gắn với dòng chữ “chỉ đọc khi tuổi đã 18”, rồi những tiêu đề có phần gây sốc đánh vào thị hiếu của độc giả trẻ: Cho em được gần anh thêm chút nữa, Khi nào anh thuộc về em, 48 giờ yêu nhau, Truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Gạ tình lấy điểm, Thoát y dưới trăng, Su su đừng khóc (một tác phẩm từng gây xôn xao cư dân mạng) kể cả những cuốn sách dịch như Hễ sướng thì hét lên, Lỡ tay chạm ngực con gái, những tên gọi có phần phản cảm Xin lỗi, Em chỉ là con đĩ, Mẹ chồng ăn thịt cả nàng dâu. Nhiều khi người viết và cả những người làm sách đã cố tình đặt cho tác phẩm một cái tên thật sốc đánh vào tâm lý hiếu kỳ của người đọc mà chưa chắc tên gọi đã phản ánh đúng tinh thần của tác phẩm. Yếu tố hình thức ở đây được chú trọng nhằm mục đích trước tiên là gây sự chú ý đối với người đọc giữa vô vàn các cuốn sách được bày bán. Như vậy tên tác phẩm ở đây không còn là kết quả của hoạt động sáng tạo, theo nghĩa nhà văn là người tạo tác (tên tác phẩm nằm trong một chỉnh thể nghệ thuật) mà là thao tác của nhà xuất bản, của người làm sách hướng tới việc kích thích thị hiếu của người tiêu dùng.

Tiểu kết chương 3:

Nhân vật và kết cấu là hai phương diện căn bản trong tác phẩm truyện ngắn. Qua việc khảo sát những thay đổi trong cách thức xây dựng nhân vật và nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Việt Nam đương đại, chúng tôi nhận thấy đã có những thay đổi cơ bản trong tư duy nghệ thuật của người viết truyện ngắn. Việc “thiết lập” những nguyên tắc xây dựng nhân vật mới đã cho thấy ý thức cách tân của chủ thể sáng tạo đồng thời đã đem đến nhiều kiểu dạng nhân vật mới. Với cách thức xây dựng nhân vật như hiện nay, có thể thấy các cây bút truyện ngắn đã mở rộng các bình diện khám phá con người khắc họa được nhiều kiểu dạng nhân vật, nhất là khi cái phần vô thức được khám phá, chiều sâu bản thể con người được soi chiếu. Con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử xã hội mà còn là sản phẩm của tự nhiên, con người tâm linh, con người bao gồm cả ý thức và vô thức. Khảo sát các dạng thức


kết cấu truyện ngắn cũng như những thành phần thuộc về kết cấu truyện ngắn như tiêu đề và phần kết có thể thấy trên cơ sở kế thừa những phương thức kết cấu truyền thống, kết cấu truyện ngắn hôm nay trở nên đa dạng.

Cùng với việc đa dạng hóa nghệ thuật tổ chức kết cấu truyện ngắn, các cây bút truyện ngắn còn chú ý đến việc thay đổi cách thức trình bày văn bản hoặc kết hợp với nhiều bút pháp nghệ thuật mới gây được nhiều hiệu ứng thẩm mỹ cho người đọc. Ở đây không những cho thấy các cách tiếp cận và khám phá hiện thực mà còn là sự thể hiện tinh thần dân chủ của nhà văn. Khi sức sáng tạo được giải phóng thì người viết mới có thể mở rộng lãnh địa tìm kiếm và điều này trên thực tế đã có được những hiệu quả tích cực.


CHƯƠNG 4

NGÔN NGỮ VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 172 trang tài liệu này.


4.1 Đổi mới ngôn ngữ trần thuật

Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay nhìn từ góc độ thể loại - 16

Những tác giả truyện ngắn thành danh đều phải tạo được dấu ấn phong cách độc đáo trong đó ngôn ngữ tác phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập phong cách nhà văn. Bàn về diễn ngôn truyện kể, Genette cho rằng: “truyện kể, đối với tôi chỉ là một hình thức của diễn ngôn” [118, tr. 19]. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện truyền đạt ý nghĩa mà còn là cách thức để người viết thể hiện khả năng sáng tạo, khả năng biến hóa của ngôn ngữ văn chương. Cùng một kho từ vựng nhưng mỗi người lại có những cách thức thiết tạo cấu trúc cú pháp ngữ đoạn khác nhau. Ngôn ngữ qua sự sàng lọc và sáng tạo của nhà văn có khả năng tạo sinh tư tưởng.

Truyện ngắn là thể loại được đặc trưng bởi sự dồn nén, cô đọng vì thế cần có sự đầu tư công phu về ngôn ngữ. Nhà văn Ma Văn Kháng coi trọng vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ trong truyện ngắn: “Truyện ngắn là nơi thử tài của các nhà văn về chữ nghĩa. Trong một cuốn tiểu thuyết có vài ba trang viết dở, người đọc dễ bỏ qua. Nhưng trong một truyện ngắn không được phép như thế” [134]. Nhà văn Tô Hoài cũng cho rằng: “truyện ngắn là một thể văn tập cho người viết nhiều nét quý lắm. Chỉ với truyện ngắn người ta mới biết tận dụng từng chữ, săn sóc từng chữ”. Nhà văn Đỗ Chu quan niệm: “cần phải chăm sóc tới từng chữ. Câu chữ phải trở nên như có nhung có tuyết”. Không đòi hỏi tính cô đọng, hàm súc, hình ảnh và nhạc điệu như trong tác phẩm thơ nhưng với tính chất “ngắn”, thể loại truyện ngắn đặt ra yêu cầu người viết phải có sự dụng công chắt lọc ngôn từ sao cho trong một khuôn khổ giới hạn, tác phẩm có thể chuyển tải được thông điệp và tạo được sự lôi cuốn với độc giả.

Trên hành trình đổi mới văn học hơn hai thập kỷ qua ngôn ngữ truyện ngắn đã có những biến chuyển đáng kể. Sự dân chủ trong đời sống cùng với sự thay đổi tư duy nghệ thuật đã mang lại một nhãn quan ngôn ngữ mới. Chưa bao giờ như bây


giờ, nhà văn được phát huy tối đa khả năng sáng tạo, ngôn ngữ được bộc lộ khả năng biểu đạt trong tính đa dạng và phức tạp của nó. Không khó khăn để nhận ra sự khác biệt trong cách các nhà văn sử dụng ngôn từ, tạo lập cấu trúc cú pháp, ngữ đoạn giữa truyện ngắn đương đại với truyện ngắn trước đó.

4.1.1. Ý thức đổi mới ngôn ngữ văn chương

Thời kỳ đổi mới, cùng với sự thay đổi tư duy nghệ thuật, ý thức về sức mạnh của ngôn ngữ và sự đổi mới ngôn ngữ văn chương, cùng với việc đưa ra những quan niệm nghệ thuật, các cây bút truyện ngắn đã trực tiếp đặt vấn đề cách tân ngôn ngữ. Phạm Thị Hoài bộc lộ khát vọng tìm kiếm những giá trị biểu đạt mới cho ngôn ngữ Việt: “tôi không khỏi băn khoăn, nên làm cho tiếng Việt của chúng ta tiếp tục trở thành một đặc sản dành riêng cho những người sành ăn, hay trước hết hãy gia tăng tính khoa học, tốc độ và khả năng biểu đạt tư duy trừu tượng của nó” [68]. Trong khi Nguyễn Huy Thiệp – người được xem là một trong những nhà văn tiên phong cho trào lưu đổi mới văn học lại cho rằng: “Tôi biết một thứ ngôn ngữ giản dị như đất - Thứ ngôn ngữ mộc mạc, thẳng băng – Có một thứ ngôn ngữ thức tỉnh con người - Buộc họ soi lòng mình như soi mặt xuống lòng hồ” (Mưa Nhã Nam). Nghĩa là, với nhà văn, ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương nói chung và trong truyện ngắn nói riêng có khả năng biến hóa vô tận để có thể diễn tả được mọi trạng thái và cung bậc của đời sống.

Những quan niệm trên đây của mỗi nhà văn đều chi phối việc sử dụng ngôn ngữ trong sáng tác của chính họ. Với ý thức đó, khi đặt bút viết thì có nghĩa là đang cố gắng tạo ra một giá trị mới cho ngôn ngữ, giải phóng ngôn từ khỏi những nghi thức và định kiến cũ mòn. Các cây bút có ý thức cá tính hoá về mặt ngôn ngữ, có cách xử lý ngôn ngữ riêng, đồng thời có xu hướng tiệm cận ngôn ngữ đời sống với sự gia tăng “thành phần khẩu ngữ” trong ý thức đưa tác phẩm đến gần hơn với người đọc. Bằng một ý thức ngôn ngữ mới, với việc phá vỡ tính khuôn định trong cách sử dụng ngôn từ; ngôn ngữ mực thước, trang trọng không còn là đặc định. Ngôn ngữ truyện ngắn gần đây đã trở nên linh hoạt với sự biến hoá của các lớp từ vựng, cấu trúc cú pháp, ngữ đoạn. Chính sự thay đổi của đời sống cùng với ý thức


cách tân, nhãn quan ngôn ngữ mới của người viết đã tạo nên những thay đổi đáng kể của ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam hiện nay.

4.1.2. Đổi mới thành phần và cấu trúc cú pháp, ngữ đoạn

4.1.2.1 Thay đổi thành phần ngôn ngữ

Sử dụng lớp ngôn ngữ đời thường, gia tăng thành phần khẩu ngữ:

Thời kỳ đổi mới, cùng với sự thay đổi đề tài, thay đổi cách tiếp cận hiện thực, nhà văn có ý thức trong việc thay đổi cách thức sử dụng ngôn từ bằng việc đưa vào tác phẩm những thành phần ngôn ngữ gần với ngôn ngữ đời sống. Với khát vọng phản ánh hiện thực trong tính đa diện nhiều chiều các nhà văn hôm nay thường sử dụng ngôn ngữ mang đậm sắc thái đời thường, khác với lối sử dụng ngôn ngữ mực thước, mang hơi hướng sử thi trước đây.

Văn học thời kỳ đổi mới chú trọng đến con người đời thường trong những mối quan hệ đa dạng của chính nó. Có thể thấy dấu ấn của đời sống hôm nay (cả về nhu cầu vật chất, đời sống tinh thần, tâm linh) đã được in dấu trong văn học. Ngôn ngữ vì thế bớt đi vẻ mượt mà, trau chuốt thậm chí thô nhám, trực diện hơn (nhất là trong ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật). Ngôn ngữ truyện ngắn đương đại đã thực hiện chức năng tái hiện đời sống trong tính phức tạp và đa diện của nó.

Ngay từ những năm cuối thập kỷ 80, các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã cho thấy một nhãn quan ngôn ngữ mới, làm thay đổi thói quen và kinh nghiệm ngôn ngữ của cả người viết và người đọc. Ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là thứ ngôn ngữ miêu tả đời sống như chính hiện thực mà nó vốn có. Ở ông, người đọc nhận thấy khả năng thâm nhập vào đối tượng miêu tả, khám phá và tái hiện chân thực đời sống trong tính sinh động, phồn thực. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp phong phú, đa dạng thuộc về nhiều thành phần: từ trí thức, tướng lĩnh, nông dân, kĩ sư, bác sỹ, đến những người làm công, trong thế giới đó, người viết đã có khả năng lột tả được bản chất, đặc điểm của từng kiểu người và qua họ lột tả được ngôn ngữ đời sống – một thứ ngôn ngữ trần trụi, thông tục, trực diện với những gì đang diễn ra (Không có vua, Huyền thoại phố phường). Sự đổi mới ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Huy Thiệp thể hiện trong cả những truyện ngắn lịch sử, những truyện ngắn mượn chất liệu văn học dân gian. Bộ ba


truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết từng tạo nên những cuộc tranh luận ngay khi các truyện ngắn này vừa mới ra đời. Một trong những yếu tố dẫn đến sự bất đồng quan điểm là ở cách nhà văn xây dựng hình tượng nhân vật, cách tạo dựng ngôn ngữ nhân vật với cái nhìn và lối viết thân mật hóa đối tượng. Bằng nhãn quan ngôn ngữ mới, Nguyễn Huy Thiệp đã trao cho các nhân vật lịch sử như Quang Trung, vua Gia Long, cũng như những nhân vật từng xuất hiện trong những truyện kể dân gian cách phát ngôn trần tục hóa. Hình tượng Quang Trung, vua Gia Long, Trương Chi qua ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp đã trở nên gần gũi với cuộc sống đời thường, không xa lạ với con người hôm nay. Nhà văn đã trao cho ngôn ngữ chức năng diễn tả cái đa sự và hỗn tạp của cuộc sống như nó vốn có. Đã có không ít người tỏ ra khó chịu với lối văn cộc lốc, ít thưa gửi, ngôn ngữ thô ráp, trần trụi thậm chí thô tục của Nguyễn Huy Thiệp; nhưng phần đông độc giả lại cho rằng đó là cách thích hợp để diễn tả sự xô bồ của cuộc đời và ở khía cạnh này việc sử dụng kiểu ngôn từ suồng sã đời thường vẫn có hiệu quả nghệ thuật. Có thể nói, Nguyễn Huy Thiệp đã làm nên một sự cách tân, một cuộc cách mạng cho ngôn từ văn chương. Sau ông, nhiều cây bút đã mạnh dạn đem vào văn chương một thứ ngôn ngữ giàu góc cạnh và cá tính.

Bằng khả năng quan sát và trải nghiệm thực tế, các cây bút truyện ngắn đương đại đã đưa vào tác phẩm của mình những tiếng nói của đời sống thường nhật với sự dung nạp khẩu ngữ trong ý thức đưa tác phẩm đến gần hơn với người đọc. Nhân vật người kể chuyện trong truyện ngắn Một thằng nhỏ (Lý Lan) mô tả cuộc sống một cách trần trụi mà xác thực với lối nói tưng tửng tỉnh khô: “Chúng tôi sống đơn giản, ít nhu cầu, tự thấy mình nhàn, không buồn nhìn lên mà cũng ít khi nhìn xuống”. Hoặc một nhân vật trong Đêm dịu dàng của Nguyễn Thị Thu Huệ: “Cái gì tôi cũng đã trải qua, hạnh phúc, đau khổ, cô đơn và hờn giận, có tất. Mỗi chết là chưa biết thôi”. Bằng lối nói trực diện, không cần rào đón, thưa gửi, ngôn ngữ đời sống đã đi vào các trang viết một cách tự nhiên. Cùng với việc đưa chất liệu đời thường vào tác phẩm, ngôn ngữ truyện ngắn nhiều khi thô ráp, đôi khi có cả sự suồng sã, bỗ bã của một thứ khẩu ngữ: “mặt mũi những thằng đàn ông như suốt đời bị mất trộm” (Nguyễn Thị Thu Huệ), “Chức cách đây mấy hôm thấy chạy xe vèo


vèo ngoài ngã ba, chở đứa con gái bé như cái kẹo, không ôm iếc gì cả, nhưng biết ngay là bồ bịch” (Hoa muộn – Phan Thị Vàng Anh). Việc sử dụng khẩu ngữ, tiếng lóng, đôi khi có cả ngôn ngữ vỉa hè, ngôn ngữ đường phố, lối phát ngôn trần trụi, không gọt dũa không chỉ có trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mà người đọc còn bắt gặp trong nhiều truyện ngắn khác như Người hùng trường làng (Tạ Nguyên Thọ), Dạo đó thời chiến tranh (Lê Minh Khuê) và không ít truyện ngắn của các cây bút trẻ. Trong truyện ngắn Hồ Anh Thái có thể thấy ngôn ngữ thị dân được sử dụng với tần suất khá đậm đặc: “Quãng đường vắng, đèn đêm đồng lõa tắt hết thình lình mấy con tôm rồ máy xông ra từ một ngõ tối. Một con vọt lên đánh võng chặn đường trước. Hai con nướng chả ép giò hai bên. Hai con đằng sau băm băm xóc ốc” (Phòng khách – Hồ Anh Thái). Hoặc như việc những tổ hợp ngôn ngữ gần gũi với đời sống thường nhật: “nát một đời hoa”, “lụn ba đời chuối”, “gã tráng men”, “gã ăn ốc đổ vỏ”, “lực điền tối dạ”, “học giả yếu tim”, “ám mùi hệ tiêu hóa”, “mốt đảo ngói” xuất hiện khá nhiều trong các truyện ngắn của anh.

Trong truyện ngắn Việt Nam đương đại đồng thời cũng xuất hiện những quán ngữ mới: “Nếu nghe được tiếng nàng nói, tôi đã … chạy mất dép(Nhạc công ống nước – Tô Hải Vân), những thành ngữ, lối nói dân gian nhưng lại gắn với trạng thái, đời sống con người hiện đại: “con cá trượt thường là con cá to” (Hậu thiên đường), “nó ăn ốc, mình đổ vỏ. Ở đời chuyện ấy thường lắm” (Nước mắt đàn ông - Nguyễn Thị Thu Huệ), “lọt sàng thì xuống đất rồi chôn luôn, không có nia nào cả” (Thời gian của mỗi người – Nguyễn Thị Thu Huệ).

Việc khai thác, vận dụng những “thành ngữ” hay lối nói dân gian hiện đại, ngôn ngữ đời sống thường nhật này đã làm gia tăng tính thời sự, cập nhật đồng thời đưa tác phẩm đến gần hơn với người đọc. Tiếp xúc với văn bản trên phương diện ngôn từ, có thể thấy, các tác giả đã có sự rút ngắn khoảng cách người kể chuyện và nhân vật, tác giả và người đọc. Với lối nói mang sắc thái hiện thực đời thường, các cây bút truyện ngắn đã góp phần tái hiện chân thực bức tranh của đời sống với một gam màu lạ, thể hiện được sự đa dạng của cuộc sống đồng thời làm phong phú, sống động hơn ngôn ngữ văn chương. Nhiều tổ hợp từ mới xuất hiện trong đời sống cũng đi vào trong văn chương. Tuy nhiên, việc sử dụng lối nói gần gũi với đời sống


thường nhật sẽ dẫn đến hai khuynh hướng. Một là, sẽ làm gia tăng hiệu quả nghệ thuật trong ý đồ của người viết nhằm tái hiện hiện thực sinh động của đời sống đang diễn ra. Hai là xu hướng quá lạm dụng sẽ làm mất đi giá trị và vẻ đẹp của ngôn từ văn chương, của ngôn ngữ truyện ngắn.

• Sử dụng lớp từ mới mang hơi thở đời sống đương đại:

Không chỉ có thứ ngôn ngữ thô nhám của một thứ khẩu ngữ, hoặc lối nói dân gian; lối nói mới mẻ, phóng túng mà rất giàu hình tượng của đời sống kinh tế thị trường trên thực tế cũng làm cho ngôn ngữ tác phẩm cập nhật hơn với đời sống. Lời một số bài hát được yêu thích, được cải biên vào đời sống, trở thành khẩu ngữ và được các tác giả truyện ngắn sử dụng: “bên B là chùm khế ngọt, bên A trèo hái mỗi ngày (Nước mắt đàn ông – Nguyễn Thị Thu Huệ); Hà Nội mùa này phố biến thành sông (Hồ Anh Thái), rồi những cụm từ “cát xê”, “cao ốc”, “máy tính” “nối mạng”, “thư điện tử”, “quá đát” … cũng được đưa vào trong các truyện ngắn của Lý Lan (Lắp ghép hạnh phúc, Tháng chạp, Công tử vườn). Sự thay đổi đời sống xã hội đương đại đã để lại dấu ấn trong ngôn ngữ trần thuật, qua việc sử dụng những lớp từ mới, chỉ xuất hiện trong vài thập niên trở lại đây (các thuật ngữ y học, tên các loại bệnh mới: HIV-AIDS, viêm não Nhật Bản, dịch cúm gia cầm; các khái niệm kinh tế tiền tệ: công ty cổ phần, thị trường chứng khoán, cổ phiếu; những từ ngữ trong thời đại thông tin: thư điện tử, chat, truyền hình cáp, nối mạng, trực tuyến trong truyện ngắn trẻ). Chẳng hạn như việc sử dụng nhiều thuật ngữ nước ngoài, thuật ngữ mới thuộc nhiều ngành chuyên môn (thuật ngữ y học, công nghệ thông tin, số hóa trong truyện ngắn Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Phan Việt, Nguyễn Việt Hà, Mạc Can): “Mặt đám này trông no nê nhưng luôn căng thẳng vì overtime nhạt nhạt xanh phảng phất màu của giấy bạc Mỹ” (Biển lạ - Nguyễn Việt Hà), hoặc như: “Mình đã save tín hiệu về mình vào trong óc họ rồi” (Hội chợ buồn thiu - Mạc Can).

Cùng với sự hiện diện internet trong đời sống, sự xuất hiện văn học mạng là sự xâm lấn ngôn ngữ mạng vào tác phẩm văn học. Những năm gần đây, ngôn ngữ “bàn phím”, “ngôn ngữ mạng” đã xuất hiện trong nhiều truyện ngắn. Điều này cho thấy một thực tế là nhu cầu được chuyển tải một phương diện của đời sống trong tác phẩm văn học (Nham - Hồ Anh Thái, Nhạc công ống nước – Tô Hải Vân, truyện

Xem tất cả 172 trang.

Ngày đăng: 17/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí