Thống Nhất Về Mặt Nhà Nước, Khôi Phục Kinh Tế, Bước Đầu Xây Dựng Chủ Nghĩa Xã Hội


gọi những người từng làm việc trong bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền ra trình diện đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ ngoan cố chống đối. Các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội cũng được tiến hành khẩn trương. Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí được sử dụng kịp thời vào công tác thông tin tuyên truyền cổ động.

Những hoạt động trên ở hai miền Nam Bắc bước đầu đã ổn định tình hình khinh tế xã hội của đất nước ngay sau chiến tranh.

1.2. Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội

Nhiệm vụ giành lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc đã hoàn thành. Nhưng về thể chế chính trị, chúng ta vẫn chưa có một nhà nước chung. Do đó yêu cầu hoàn toàn thống nhất đất nước về mặt Nhà nước được đặt ra một cách bức thiết. Ngày 25- 4- 1976, cuộc tổng tuyển cử Quốc hội chung được tiến hành trong cả nước. Ngay sau đó Quốc hội khoá VI đã họp kỳ họp đầu tiên tại Hà Nội. Quốc hội đã quyết định nhiều lĩnh vực quan trọng của đất nước trong thời kỳ mới. Từ đây, nhiệm vụ tiếp tục hoàn thành thống nhất đất nước trên các lĩnh vữc chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội sẽ gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam lần thứ IV nêu rõ: Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Điều đó đã được cụ thể hoá trong hai kế hoạch nhà nước 5 năm 1976 - 1980 và 1981 - 1985. Việc thực hiện những kế hoạch này đạt được những kết quả nhất định tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Đời sống của đại bộ phận


nhân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều lao động chưa có việc làm. Nhiều nhu cầu chính đáng, tối thiểu của nhân dân về vật chất và văn hoá chưa được đảm bảo. Mặt khác các hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm. Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một sổ cán bộ chưa bị trừng trị nghiêm khắc, kịp thời.

Thực trạng kinh tế xã hội đó đã làm lay động dữ dội mọi suy nghĩ, niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân. Đúng như nhận xét của nhà văn Nguyễn Khải: Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh giản dị của nó. Hoà bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong. Nhiều người không chết trong nhà tù, trên trận địa trong chiến tranh mà lại chết trong ao tù trưởng giả khi cả nước đã giành được tự do và độc lập [25].

1.3. Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Sau 30 năm chiến tranh liên miên, khi đất nước vừa được độc lập tự do, chúng ta lại tiếp tục đối mặt với những cuộc xâm lược mới. Từ tháng 5- 1975 đến 1977, tập đoàn Pôn Pốt- Iêng Xari đổ bộ xâm lược nhiều vùng lãnh thổ nước ta từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Chúng dần dần mở rộng thành cuộc chiến tranh lớn trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Tuy nhiên, hành động của chúng đã bị quân dân ta ngăn chặn và làm thất bại (năm 1978). Không những thế, chiến thắng biên giới Tây Nam của ta đã tạo thời cơ thuận lợi cho cách mạng Campuchia giành thắng lợi.

biên giới phía Bắc, Trung Quốc đã có những hành động làm tổn hại đến tình cảm của hai nước như: cho quân khiêu khích quân sự dọc biên giới, rút chuyên giaNghiêm trọng hơn, tháng 2 năm 1975, Trung Quốc đã mở cuộc tấn công nước ta dọc theo biên giới từ Móng cái đến Lai Châu. Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, quân dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã chiến đấu buộc Trung Quốc phải rút quân.

Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 - 3


Chấm dứt hai cuộc xung đột biên giới phía Bắc và Tây Nam, nước ta đã bảo vệ toàn vẹn lành thổ và khôi phục, giữ vững tình đoàn kết hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng.

Có thể nói, bối cảnh lịch sử xã hội đất nước 10 năm sau chiến tranh có nhiều chuyển biến phức tạp. Điều này có tác động không nhỏ đến đời sống của văn học nước nhà.

2. Tình hình phát triển của văn xuôi

Sự phát triển của một nền văn học nói chung, văn xuôi nói riêng bao gồm nhiều vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. đây chúng tôi chỉ đi vào lĩnh vực sáng tác của văn xuôi trong giai đoạn 1975 - 1985 để từ đó có được cái nhìn khách quan, tổng thể về diện mạo của truyện ngắn trong giai đoạn này.

Với dân tộc Việt Nam, dấu mốc 1975 đánh dấu sự sang trang của lịch sử đất nước: chuyển từ thời chiến sang thời bình, từ cuộc sống với những quy luật không bình thường của chiến tranh sang cuộc sống bình thường, hàng ngày của nhân dân. Tuy nhiên, văn học lại không sang trang cùng lúc với lịch sử. Nền văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật, những cảm hứng chủ đạo trong chiến tranh cho đến khoảng đầu những năm 1980. Điều này đúng với lý luận của Mác: ý thức thường chậm hơn so với thực tại xã hội.

Sự chạy theo quán tính này của văn học dẫn đến tình trạng mất độc giả. Sau chiến tranh, các nhà văn có điều kiện, có nhiều thời gian hơn để viết thì bỗng dưng cái mối quan hệ vốn rất thắm thiết máu thịt giữa văn học và công chúng, giữa sáng tác và người đọc lạnh nhạt hẳn đi, hụt hẫng hẳn đi. Người đọc quay lưng lại với những sáng tác hiện tại. Đó cũng chính là khoảng thời gian mà Nguyên Ngọc gọi là khoảng chân không trong văn học. đó, âm không truyền đi được.


Nền văn học chững lại, không ít người viết lâm vào tình trạng hoang mang, bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác. Nhưng dần dần họ cũng tìm ra nguyên nhân: cuộc sống thay đổi rất nhiều mà văn học vẫn giữ nguyên bộ quần áo cũ. Đời sống hoà bình nhưng hoá ra lại phức tạp hơn trong chiến tranh rất nhiều. Bởi trong chiến tranh, mọi quan hệ xã hội và con người dồn lại trong một mối quan hệ duy nhất: sống - chết. Tất cả những quan hệ đời thường, riêng tư bị đẩy lại phía sau, thậm chí bị triệt tiêu để hướng đến mục tiêu duy nhất: chiến đấu để chiến thắng. Chính ngọn lửa chiến tranh đã thiêu cháy những sự nhỏ nhen, tính toán, bon chen của cuộc sống thường nhật. Nếu trong chiến tranh trăm người như một, đồng tâm nhất trí cho sự nghiệp chung thì hoà bình lại khác. Con người trở về với cuộc sống đời thường, đối mặt với những lo toan cá nhân, những mất mát trong chiến tranh, những khó khăn của cuộc sống kinh tế, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa quyền lợi riêng và quyền lợi chung không hoàn toàn thống nhất như trước đây. Do đó tất cả đều cần một sự thay đổi mới để có một cách nhìn, một cách nghĩ mới với tinh thần trách nhiệm cao để đáp ứng được những điều kiện mà thực tế đặt ra.

Trong những điều kiện lịch sử ấy, văn xuôi đầu năm 80 cũng đã trải qua những trăn trở cho một cuộc chuyển mình. Tuy nhiên sự vận động ấy còn do yêu cầu nội tại của chính nền văn học. Đó là sự phát triển của tư duy nghệ thuật ở một trình độ mới. Sự vận động của văn học giai đoạn này trước hết là ở khuynh hướng sáng tác, ở quan niệm về hiện thực và con người, ở phương thức tiếp cận và miêu tả thực tại.

Đầu những năm 80 trong văn xuôi đã hình thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Khuynh hướng sử thi, tiếp tục mạch chảy của nó trong sáng tác của nhiều nhà văn, đặc biệt ở đội ngũ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến. Nhiều cây bút văn xuôi hướng tới việc tạo dựng bức tranh toàn cảnh


của cuộc kháng chiến ở tầm vóc và quy mô lớn như Ông cố vấn (Hữu Mai). Độ lùi của thời gian cũng đã cho phép các nhà văn đi vào những mặt trái, những góc khuất của chiến tranh. Đó là sự hy sinh mất mát, cả những lầm lạc, hèn nhát, phản bội của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ - những người trong văn học cách mạng thường chỉ được phản ánh ở sự dũng cảm, ở mặt tốt, mặt phi thường (Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh).

Tuy nhiên do bối cảnh xã hội đã thay đổi, càng về sau, khuynh hướng sử thi càng có xu hướng co hẹp lại nhường chỗ cho sự phát triển của khuynh hướng thế sự. Lúc này, văn xuôi thực sự bước sang địa hạt của những vấn đề trong đời sống thường nhật. Đứng trứơc hiện thực này đòi hỏi người nghệ sĩ phải thay đổi cách nhìn nhận, cách tiếp cận cuộc sống. Nếu trong chiến tranh mọi việc đều được nhận thức theo một chiều (trắng - đen, tốt – xấu), ngay cả việc đánh giá con người cũng thông qua những chuẩn mực toàn dân thì giờ đây trong hoà bình, khi quy luật của chiến tranh đã hết hiệu lực, những chuẩn mực cũ không đáp ứng được hiện tại mới. Con người cần xây dựng những chuẩn mực mới.

Trên mảnh đất sôi động của cuộc sống hiện thực sau chiến tranh, văn xuôi có những điều kiện để phát triển. Nguyễn Khải viết: Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật làmột mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ[25/74-75]. Trong ngổn ngang hiện thực đó, nổi lên những vấn đề được nhiều cây bút quan tâm như: đạo đức xã hội, tiêu cực trong quản lí sản xuất, nhận thức lại một số vấn đề trong qúa khứ...

Với Hai người trở lại trung đoàn (1976), Thái Bá Lợi là người mở đầu báo hiệu cuộc đấu tranh phức tạp chống lại sự sói mòn trong đạo đức của con người. Những bông bần li (1981) của Dương Thu Hương lại đặt ra vấn đề đạo đức và số phận con người trong một xã hội tiêu dùng. Sau những năm


chiến tranh liên miên, mỗi người dường như phải gồng mình lên đối diện với hàng loạt khó khăn chồng chất, hướng về những nhu cầu thiết yếu (ăn ở mặc...) con người phát triển chưa thể cân bằng. Những khó khăn về đời sống ấy dễ gợi mở về một nhu cầu phiến diện. Chủ nghĩa thực dụng và văn hoá tiêu dùng hiện đại đã trở thành đối tượng có sức hấp dẫn đặc biệt[39/88]. Mặt khác ở cây bút đầy nữ tính này nhu cầu hạnh phúc riêng tư của con người cũng được diễn tả, bộc lộ một cách khẩn thiết. Giữa ranh giới buồn - vui, được - mất của cuộc sống thì khát vọng hạnh phúc của con người là khôn cùng. Bên canh đó, một số truyện của Nguyễn Minh Châu, Vũ Tú Nam, Ma Văn Kháng... lại tiếp cận vấn đề đạo đức từ góc độ gia đình. đó thường diễn ra hành trình tự ý thức, tự phán xét lương tâm của cá nhân xoay quanh trục thời gian hai chiều: quá khứ và hiện tại.

Những năm sau chiến tranh, xã hội bắt đầu tỏ rõ sự trì trệ, yếu kém và có phần bế tắc. Những vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế xã hội thời kì khủng hoảng cũng là mảng hiện thực nóng bỏng trong đời sống văn học. Khi tiểu thuyết Đứng trước biển (1982), Cù lao chàm (1985) của Nguyễn Mạnh Tuấn xuất hiện đã gây phản ứng khác nhau trong dư luận bạn đọc, làm xôn xao văn đàn, kéo độc giả đến gần với văn học. Bởi đó là một minh chứng hùng hồn cho quan điểm của Đảng ta: văn học là cuộc sống, là sự đấu tranh của những nhà văn cho một cuộc sống tốt đẹp, cuộc đấu tranh bằng tác phẩm văn học [81/439].

Nổi lên sóng gió dư luận hơn cả là khuynh hướng nhận thức lại một số vấn đề của thời kì chiến tranh. Nhận thức lại không đồng nghĩa với việc xét lại hay bắn súng đại bác vào quá khứ mà là nhờ vào kinh nghiệm, người ta gạt bỏ cái sai lầm khỏi cái chủ quan nó bao để đi đến chân lí. Thời xa vắng của Lê Lựu, Những tháng ngày đã qua của Xuân Thiều, Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam, Nguời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của


Nguyễn Minh Châu... là những tác phẩm viết theo hướng này. Các tác phẩm đó đã đặt ra vấn đề nhận thức lại quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa con người và hoàn cảnh nhưng quan trọng hơn là con người tự nhận thức lại chính mình. Viết theo xu hướng này nhà văn cần có cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt và một tấm lòng chân thành, như lời tâm sự của tác giả Võ Văn Trực viết lại chuyện cũ, tôi hoàn toàn không có ý đồ xấu xa moi móc những sai lầm chúng ta đã vấp phải để rồi đổ lỗi cho người này hay người kia mà cốt để chúng ta đừng lặp lại những sai lầm ấy[74/5]. Do đó, trên lối đi mới này, các nhà văn đã đem lại cho bạn đọc những kiến giải thú vị, có khả năng thanh lọc tâm hồn con người.

Như vậy, thâm nhập vào đời sống văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, đặc biệt từ nửa đầu những năm 80 trở đi có manh nha vật chất mới, còn rất loãng, tất nhiên, đang vận động, đang hình thành, đang tụ lại dần, khó nhọc, chậm chạp, nhưng về xu thế lâu dài là hứa hẹn[51/10]. Đó là sự đổi mới trong nhận thức về hiện thực theo hướng nhìn sâu hơn hiện thực ấy. Đó cũng là cảm hứng phân tích để chỉ ra nhiều mặt của hiện thực (bao gồm cả mặt sáng và mặt tối), là khát vọng dân chủ và nhân đạo, hướng sự quan tâm vào con người cá nhân. Những chuyển đổi trong nội dung phản ánh này cũng đòi hỏi sự đổi mới trong hình thức thể hiện.

Sự khởi động của một thời kì văn học mới cũng ảnh hưởng bởi mảng văn học dịch. Trước năm 1975, văn học nước ngoài đương đại được dịch và giới thiệu ở Việt Nam chủ yếu là những sáng tác của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sau 1975, hoạt động dịch, giới thiệu nền văn học đương đại Âu- Mỹ diễn ra sôi nổi. Các tác phẩm đoạt giả Nôben, các tác phẩm thuộc nhiều trường phái nghệ thuật khác nhau như tượng trưng, siêu thực, hiện sinh, hiện đại, hậu hiện đại... được dịch rộng rãi. Ngay cả một số tác phẩm văn học các nước xã hội chủ nghĩa từng bị cấm như thơ Akhơmatôva, tiểu thuyết của


Paxtécnác cũng được bày bán. Mảng văn học dịch này có tác động không nhỏ tới quá trình đổi mới văn học ở Việt Nam. Nó làm thay đổi thị hiếu nghệ thuật của thanh niên. Nhiều nhà văn từng sáng tác trong thời kì chiến tranh nhận ra rằng nếu tiếp tục sáng tác như cũ họ sẽ tự đánh mất độc giả. Nghĩa là văn học dịch đã làm cho các nhà văn Việt Nam thấy cần phải đổi mới cách viết[40/56].

Tuy nhiên, khoảng mười năm sau chiến tranh, trong lĩnh vực sáng tác việc đổi mới cách viết chưa trở thành một phong trào rầm rộ, chưa xuất hiện nhiều những cây bút trẻ có khuynh hướng đổi mới. Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn là những nhà văn đi tiên phong trong giai đoạn văn học tiền đổi mới này. Những sáng tác của họ góp phần mở đường cho văn học đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc từ sau 1986.

3. Diện mạo của truyện ngắn

3.1. Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người.

3.1.1. Quan niệm về hiện thực

Theo Trần Đình Sử, thuật ngữ quan niệm trong nghệ thuật là một khái niệm về chủ thể, khái niệm về hệ quy chiếu, thể hiện tầm lí giải, tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm, nói tổng quát là tầm hoạt động của chủ thể. Quan niệm cung cấp một mặt bằng để trên đó diễn ra sự lựa chọn, khái quát, nhào nặn, tạo ra hình tượng nghệ thuật, thậm chí có thể biến đổi hình dạng sự vật hoặc miêu tả không chính xác về đời sống[77/8].

Do quan niệm thuộc về chủ thể sáng tạo nên mỗi nhà văn có quan niệm riêng về hiện thực. Đó là sự nhận thức, đánh giá về hiện thực cuộc sống của nhà văn theo một quan điểm thẩm mĩ nhất định. Như thế không có nghĩa là quan niệm nghệ thuật về hiện thực của nhà văn chỉ là nhận thức trừu tượng, lí thuyết, chung chung. Trái lại, đó là cách nhìn, là sự cảm nhận về

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/10/2023