Tính Liên Tục Của Việc Giải Quyết Tranh Chấp Bằng Trọng Tài

ký kết hợp đồng, luật nơi thực hiện hợp đồng. Vậy luật nào sẽ được lựa và dựa trên cơ sở nào?

Luật tố tụng


Việc xác định luật trong tố tụng trọng tài bị chi phối bởi nguyên tắc tự do thỏa thuận và nguyên tắc nơi xét xử của trọng tài.

Khi giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế tại tòa án thì tòa án có quyền tiến hành mọi thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng nước mình. Việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài lại khác, trong nhiều trường hợp, trọng tài không nhất thiết phải tuân thủ theo các quy định về thủ tục tố tụng trọng tài của nước mà trọng tài tiến hành xét xử. Bởi nguyên tắc thỏa thuận của hai bên chủ thể trong hợp đồng thương mại quốc tế không những chi phối việc chọn luật để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng mà nó còn chi phối cả việc thành lập hoặc chọn trọng tài, trong đó bao gồm cả việc đưa ra những nguyên tắc xét xử hoặc chọn luật tố tụng cho quá trình xét xử của trọng tài. Trên thực tế, khi thỏa thuận về trọng tài để xét xử tranh chấp, các bên có thể chọn một tổ chức trọng tài thường trực (hay trọng tài quy chế) hoặc cũng có thể thỏa thuận thành lập trọng tài Ad-hoc. Trong mỗi trường hợp chọn hình thức trọng tài thì việc chọn luật áp dụng cho tố tụng trọng tài cũng khác nhau, đó là:

- Nếu các bên thống nhất chọn một tổ chức trọng tài quy chế và chọn một quy tắc trọng tài thì quy tắc trọng tài đó sẽ được áp dụng cho tố tụng trọng tài.

- Trong trường hợp các bên thỏa thuận chọn trọng tài quy chế cụ thể để xét xử mà không quy định quy tắc tố tụng thì đồng nghĩa với việc các bên thỏa thuận chọn quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài quy chế đó.

- Trong trường hợp các bên thỏa thuận thành lập trọng tài Ad-hoc thì việc xác định luật áp dụng cho tố tụng trọng tài sẽ do các bên tự quyết định.

Các bên có thể thỏa thuận xây dựng nên các nguyên tắc một cách độc lập và cũng có thể chọn các quy định về tố tụng của một tổ chức trọng tài thường trực nào đó để áp dụng cho trọng tài mà các bên đã lập ra. Trong trường hợp các bên chọn các quy định của tổ chức trọng tài thường trực nào đó thì các quy định này có thể được các bên thỏa thuận giữ nguyên hoặc sửa đổi, bổ sung trước khi áp dụng. Nếu không có thỏa thuận chọn quy tắc tố tụng thì trọng tài Ad-hoc sẽ áp dụng linh hoạt một thủ tục tố tụng nhưng phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên.

Luật tố tụng trong trọng tài không chỉ phụ thuộc vào sự lựa chọn hình thức trọng tài như đã đề cập ở trên mà còn phụ thuộc nơi xét xử của trọng tài, tức là luật nơi trọng tài tiến hành xét xử tranh chấp sẽ chi phối hoạt động tố tụng của trọng tài. Nói cách khác, trọng tài tiến hành xét xử ở đâu thì sẽ áp dụng luật tố tụng trọng tài ở nơi đó. Nguyên tắc này được áp dụng để xác định luật tố tụng của trọng tài trong trường hợp nếu các bên không thỏa thuận chọn luật tố tụng. Do đó, như đã trình bày ở trên, việc áp dụng nguyên tắc này để xác định luật tố tụng thường xảy ra trong trường hợp các bên thành lập trọng tài Ad-hoc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.

Như vậy việc chọn luật tố tụng trọng tài trước tiên phải tuân thủ theo nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, nếu các bên không thỏa thuận thì nguyên tắc luật nơi xét xử sẽ được áp dụng để xác định luật điều chỉnh tố tụng trọng tài.

Luật nội dung

Trọng tài - phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế giữa các doanh nghiệp. Thực trạng và giải pháp ở Việt Nam - 5


Luật áp dụng để xét xử nội dung tranh chấp là luật mà trọng tài dùng để xem xét việc thực hiện nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật này được gọi là luật áp dụng cho hợp đồng. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, luật áp dụng cho hợp đồng được hình thành trên các cơ sở pháp lý sau đây:

Thứ nhất là luật do các bên lựa chọn.

Về nguyên tắc, luật do các bên lựa chọn là luật do các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng hoặc được quy định trong một văn bản riêng biệt do hai bên ký.

Trong quá trình giao kết hợp đồng, ngoài những điều khoản chính của hợp đồng như đối tượng của hợp đồng, giá cả, phương thức thanh toán... các bên thường thỏa thuận thêm điều khoản về luật áp dụng. Luật được chọn là do các bên tự do thỏa thuận. Điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng không chỉ là cơ sở pháp lý ràng buộc quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên chủ thể của hợp đồng đối với nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng mà nó còn là cơ sở pháp lý để cơ quan xét xử áp dụng nhằm xác định trách nhiệm của các bên nếu sau này hợp đồng bị vi phạm. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp (nếu có) xảy ra và làm tăng thêm trách nhiệm với nhau, đôi khi trong quá trình giao kết hợp đồng các bên quy định thêm luật áp dụng cho hợp đồng trong điều khoản trọng tài vì về mặt pháp lý, thỏa thuận trọng tài được xem là giao kết độc lập với hợp đồng thương mại của các bên. Do đó, trong trường hợp mặc dù hợp đồng đã được thực hiện hoặc bị vi phạm, thậm chí bị vô hiệu thì điều khoản về trọng tài của hợp đồng vẫn còn nguyên giá trị pháp lý. Như vậy, việc xây dựng thỏa thuận trọng tài mà trong đó bao gồm cả việc chọn luật áp dụng sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc để bên vi phạm bảo vệ được quyền lợi của mình trước cơ quan xét xử.

Thứ hai là luật được quy định trong các Điều ước Quốc tế có liên quan.


Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng và những điều khoản trong hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận không đủ cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp thì luật áp dụng sẽ là luật được quy định trong các Điều ước quốc tế có liên quan. Công ước La-Hay

năm 1955 về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại mục 1 Điều 3 quy định: “Nếu hợp đồng không quy định thì luật áp dụng cho hợp đồng là luật của nước người bán có trụ sở kinh doanh vào lúc ký kết hợp đồng”. Tuy nhiên, theo mục 2 Điều 3 Công ước này thì “luật áp dụng là luật nước người mua khi việc đàm phán và ký kết hợp đồng hoặc nghĩa vụ giao hàng được thực hiện ở nước người mua”. Khoản 1 Điều 4 Công ước Rômma 1980 cũng quy định rằng: “Nếu các bên không lựa chọn luật áp dụng thì luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng sẽ được áp dụng”. Tuy nhiên, việc hiểu thế nào là “luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng” lại hoàn toàn do Hội đồng trọng tài quyết định.

Thứ ba là luật do Hội đồng trọng tài xét xử tranh chấp quyết định.


Nếu trong hợp đồng không quy định luật áp dụng, giữa hai nước của hai bên tranh chấp cũng không có Điều ước quốc tế có liên quan nào quy định luật áp dụng cho hợp đồng thì luật áp dụng cho hợp đồng để giải quyết tranh chấp sẽ do chính hội đồng trọng tài xét xử tranh chấp đó quyết định. Thẩm quyền quyết định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài được ghi rõ trong Điều VII của Công ước Giơnevơ về Trọng tài Thương mại quốc tế năm 1961, Điều 33 đoạn 1 và 3 Quy tắc trọng tài quốc tế UNCITRAL. Hội đồng trọng tài có thể căn cứ vào tiền lệ xét xử để quyết định luật áp dụng. Nhìn chung luật mà hội đồng trọng tài thường quyết định dùng để giải quyết tranh chấp là luật nước người bán, hoặc luật nước người mua hoặc luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng. Luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng có thể là luật của nước mà các bên tranh chấp mang quốc tịch hoặc cư trú, luật nơi ký kết hợp đồng, luật nơi có tài sản là đối tượng tranh chấp của hợp đồng... Việc quyết định luật nào là luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng để làm cơ sở xét xử tranh chấp sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào lập luận của hội đồng trọng tài. Cơ sở cho những lập luận này dựa vào những chứng cứ, tình huống của từng vụ kiện cụ thể, trên nguyên tắc tôn trọng nguyện vọng của các

bên và bảo vệ các nguyên tắc thương mại quốc tế, trong đó quyền lợi của các bên, các điều khoản trong hợp đồng mà các bên thỏa thuận phải được bảo vệ, nguyên tắc trung thực trong thương mại, nguyên tắc tôn trọng giá trị đạo đức... phải được tôn trọng.

Ngoài ra trọng tài phải căn cứ vào các quy tắc nêu trong bản dự thảo nguyên tắc về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế, một công trình nghiên cứu của ủy ban Thương mại quốc tế của ICC đưa ra tại hội nghị Stockholm ngày 09/10/1981.

Tóm lại, vấn đề chọn luật áp dụng trong xét xử của trọng tài là một trong những vấn đề pháp lý quan trọng. Việc chọn luật để trọng tài áp dụng cho việc xét xử tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên và luật tố tụng trọng tài đều trước hết tôn trọng quyền tự do thỏa thuận giữa các bên, mặc dù trên thực tế việc lựa chọn luật tố tụng cho trọng tài thường trực còn hạn chế. Bên cạnh việc giống nhau trong việc cùng áp dụng nguyên tắc tự do thỏa thuận chọn luật áp dụng, việc chọn luật cho xét xử nội dung tranh chấp và chọn luật cho tố tụng trọng tài có sự khác nhau ở chỗ: nếu chọn luật áp dụng cho xét xử nội dung vụ tranh chấp bị chi phối bởi nguyên tắc luật có quan hệ gần gũi với hợp đồng thì việc chọn luật cho tố tụng trọng tài phụ thuộc vào nơi xét xử của trọng tài. Việc tôn trọng những nguyên tắc chọn luật cho trọng tài trên đây đã làm cho hoạt động của trọng tài thương mại đảm bảo tính công bằng và hợp lý trong việc xét xử tranh chấp trong kinh doanh quốc tế.

4.4 Tính liên tục của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Từ khi trọng tài nhận được đơn kiện của nguyên đơn thì hội đồng trọng tài sẽ theo vụ kiện từ đầu đến cuối trừ khi các bên đương sự có yêu cầu thay đổi thành viên của Hội đồng trọng tài. Do đó, các trọng tài viên nắm rõ được các tình tiết của vụ tranh chấp, việc giải quyết tranh chấp được tiến hành thuận lợi hơn. Điều này khác hẳn với việc giải quyết tranh chấp tại tòa án. Do vậy thời gian trung bình để giải quyết một vụ kiện bằng trọng tài bao giờ cũng ngắn hơn nhiều so với giải quyết tranh chấp tại tòa án.

4.5 Tiết kiệm thời gian

Do xét xử bằng trọng tài chỉ qua một cấp và trọng tài theo vụ kiện liên tục làm cho các bên tranh chấp tiết kiệm được thời gian. Một vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết tại VIAC không bao giờ phải giải quyết kéo dài quá 6 tháng trong khi đó việc giải quyết tranh chấp tại tòa án kéo dài vài năm là một chuyện bình thường. Việc tiết kiệm thời gian trong thời đại ngày nay mang ý nghĩa lớn trong việc giảm thiểu các rủi ro và tiết kiệm chi phí.

4.6 Giúp các bên duy trì được mối quan hệ

Tính ưu việt này của xét xử tranh chấp bằng trọng tài xuất phát từ tính bí mật trong xét xử và việc tôn trọng ý chí của các bên. Phán quyết được đưa ra phù hợp với nguyện vọng của các bên và được các bên tự nguyện thi hành là điều kiện đảm bảo việc duy trì mối quan hệ hữu hảo của các bên.

4.7 Tận dụng được kinh nghiệm của các chuyên gia

Các trọng tài viên tham gia xét xử được các bên đương sự lựa chọn thường là các chuyên gia giàu kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực, trong quá trình xét xử các trọng tài viên sẽ sử dụng kinh nghiệm của mình để đưa ra những phán quyết đúng đắn và phù hợp với lợi ích của các bên.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM‌‌

I. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ THÔNG QUA CÁC TỔ CHỨC TRỌNG TÀI


1. Một số nét về hoạt động của các trung tâm trọng tài phi chính phủ


Trọng tài từ lâu đã trở thành phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế được các thương nhân sử dụng một cách phổ biến. Ở Việt Nam, phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế này chỉ được biết đến từ đầu những năm 1960 khi hai tổ chức trọng tài thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam được thành lập (Hội đồng Trọng tài ngoại thương - 1963 và Hội đồng Trọng tài hàng hải - 1964) ra đời. Mặc dù vậy, từ thập kỉ 60 cho đến giữa thập kỉ 80, nền kinh tế Việt Nam phát triển theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu do sự sắp đặt giữa chính phủ Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế, nên trọng tài càng nhận được ít sự quan tâm từ phía các doanh nghiệp Việt Nam. Từ những năm 90, Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu thương mại với nhiều quốc gia trên thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội làm ăn với các đối tác nước ngoài nên đã biết đến và sử dụng trọng tài nhiều hơn. Nhưng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn rất e ngại khi chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng mua bán quốc tế, một mặt do hiểu biết hạn chế, mặt khác do hệ thống pháp luật về trọng tài của Việt Nam còn nhiều bất cập, dẫn đến các quyết định của trọng tài không có tính cưỡng chế thi hành như bản án của tòa án.

Trước những đòi hỏi khách quan về đa dạng hóa các hình thức và phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh phù hợp với đặc điểm của cơ chế thị trường cũng như góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế, ngày 05/09/1994 Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 116-CP về tổ chức và hoạt động của các trung tâm trọng tài kinh tế. Theo các quy định của Nghị định này, trọng tài kinh tế thực sự được xác định là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tức là tổ chức phi chính phủ có thẩm quyền giải quyết một số tranh chấp theo quy định, hoàn toàn tách rời với chức năng quản lý Nhà nước như trước đây.

Sau gần 10 năm thực hiện Nghị định 116-CP, đã có 6 Trung tâm trọng tài được thành lập với hơn 130 Trọng tài viên (35). Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan và khái quát thì trọng tài chưa thể hiện được vai trò của mình với chức năng là một cơ quan tài phán hỗ trợ đắc lực cho tòa án trong việc giải quyết tranh chấp.

Nhằm khắc phục những hạn chế, tăng cường hiệu quả và năng lực của các trung tâm trọng tài và đội ngũ trọng tài viên, ngày 25/02/2003, Ủy ban Thường vụ quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH và ngày 15/01/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại. Có thể nói, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại đã mở rộng một cách đáng kể thẩm quyền của Trọng tài ở nước ta so với thẩm quyền của Trọng tài theo Nghị định 116-CP; quy định đầy đủ, rõ ràng về thỏa thận trọng tài, góp phần chấm dứt tình trạng “lấn quyền của Tòa án đối với trọng tài”; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc trở thành trọng tài viên; ghi nhận hình thức trọng tài mới là trọng tài vụ việc; mở rộng thẩm quyền chọn trọng tài viên cho các bên tranh chấp; ghi nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa Trọng tài

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/09/2022