Sự xuất hiện các tranh chấp kinh tế hiện nay và trong tương lai là vấn đề có tính tất yếu, đồng thời nền kinh tế theo cơ chế thị trường ngày càng phát triển sẽ xuất hiện ngày càng nhiều dạng tranh chấp kinh tế mới phức tạp hơn. Khi tranh chấp kinh tế phát sinh, chúng đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng, nhanh chóng và kịp thời, có như vậy mới bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của chủ thể kinh doanh và tạo môi trường kinh doanh lành mạnh.
Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, song nhiều nhà khoa học đã thống nhất rằng: tranh chấp kinh tế được hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau. Theo đó tranh chấp kinh tế có các dạng cơ bản sau:
- Tranh chấp trong kinh doanh: được diễn ra giữa các chủ thể tham gia kinh doanh. Cụ thể đó là những tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
- Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư, loại hình tranh chấp này nảy sinh trong việc thực hiện các hợp đồng BTO,BOT và BT; thực hiện các điều ước quốc tế về khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương và đa phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về thương mại song phương và đa phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong việc thực hiện các
điều ước quốc tế về thương mại đa phương.
Trong các loại hình tranh chấp trên, thì tranh chấp trong kinh doanh là loại hình tranh chấp phổ biến nhất và do đó trong 1 số trường hợp khái niệm tranh chấp trong kinh doanh và khái niệm tranh chấp kinh tế được sử dụng với ý nghĩa tương đương nhau.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Và Các Dấu Hiệu Pháp Lý Của Hợp Đồng Vận Chuyển Hàng Hoá:
- Bảo Vệ Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Các Chủ Nợ:
- Thủ Tục Phục Hồi Hoạt Động Kinh Doanh:
- Quan Điểm Và Tư Tưởng Chỉ Đạo Việc Ban Hành Luật Cạnh Tranh:
- Lạm Dụng Vị Trí Thống Lĩnh Thị Trường, Vị Trí Độc Quyền
- Luật kinh doanh dùng cho sinh viên hệ đào tạo đại học từ xa 2007 - 15
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
* Đặc điểm của tranh chấp trong kinh doanh:
- Nó luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh của các chủ thể
- Các chủ thể tranh chấp trong kinh doanh thường là các doanh nghiệp
- Nó là sự biểu hiện ra bên ngoài, là sự phản ánh của những xung đột về mặt lợi ích kinh tế giữa các bên.
Theo pháp luật Việt Nam, khi có tranh chấp trong kinh doanh, các bên có thể chọn 1 trong 4 phương thức giải quyết sau:
- Thương lượng: là hình thức giải quyết tranh chấp thường không cần đến vai trò tác động của bên thứ 3. Đặc điểm cơ bản của hình thức này là các bên cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự giải quyết các bất đồng.
Thương lượng là hình thức phổ biến, thích hợp cho việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Hình thức này từ lâu đã được giới thương nhân ưa chuộng, vì nó đơn giản lại không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý phiền phức, tốn kém và nói chung không làm phương hại đến quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên trong kinh doanh cũng như giữ được bí mật kinh doanh. Thương lượng đòi hỏi trước hết các bên phải có thiện chí, trung thực, hợp tác và phải có đầy đủ những am hiểu cần thiết về chuyên môn và pháp lý. Kết quả của thương lượng là những cam kết, thỏa thuận về những giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ những bế tắc hoặc bất đồng phát sinh mà các bên thường không ý thức được trước đó.
Hình thức pháp lý của việc ghi nhận kết quả thương lượng là biên bản. Nội dung chủ yếu của biên bản thương lượng phải đề cập đến các vấn đề sau: những sự kiện pháp lý có liên quan, chính kiến của mỗi bên (sự bất đồng), các giải pháp được đề xuất, những thỏa thuận và cam kết đã đạt được. Khi biên bản thương lượng được lập 1 cách hợp lệ, những thỏa thuận trong biên bản thương lượng được coi là có giá trị pháp lý như hợp đồng và đương nhiên nó có ý nghĩa bắt buộc đối với các bên.
Trong trường hợp kết quả thương lượng không được 1 bên tự giác thực hiện vì thiếu thiện chí, biên bản thương lượng sẽ được bên kia sử dụng như 1 chứng cứ quan trọng để xuất trình trước các cơ quan tài phán kinh tế, để yêu cầu các cơ quan này thừa nhận và cưỡng chế thi hành những thoả thuận nói trên.
- Hòa giải: Là hình thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ 3, đóng vai trò làm trung gian để hỗ trợ hoặc thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm chấm dứt xung đột hay bất hoà. Cũng như thương lượng, hoà giải là biện pháp tự nguyện tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của các bên tham gia tranh chấp. Đặc biệt là bên thứ ba với tính chất trung gian hoà giải phải có vị trí độc lập đối với các bên.
Bên thứ ba làm trung gian hoà giải không phải là đại diện của bất kỳ bên nào và cũng không có quyền quyết định, phán xét như 1 trọng tài. Họ thường là những cá nhân, tổ chức có trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm về những vụ việc có liên quan đến các tranh chấp phát sinh. Công việc của họ là xem xét, phân tích, đánh giá và đưa ra những ý kiến, nhận định bình luận về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ và những vấn đề có liên quan để các bên tham khảo. Đề ra những giải pháp, những phương án thích hợp để các bên lựa chọn và quyết định.
* Các hình thức hoà giải:
+ Hoà giải ngoài tố tụng: là hình thức hoà giải qua trung gian, được các bên tiến hành trước khi đưa vụ tranh chấp ra cơ quan tài phán. Khi thống nhất được các hình thức giải quyết tranh chấp, các bên phải tự nguyện thực hiện theo các phương án đã thỏa thuận.
+ Hoà giải trong tố tụng: là hoà giải được tiến hành tại Toà án hay trọng tài khi các cơ quan này giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên. Người trung gian hoà giải trong trường hợp này là Toà án hoặc Trọng tài (cụ thể là Thẩm phán hoặc Trọng tài viên).
- Trọng tài: là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài với tư cách là bên thứ 3 độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra 1 phán quyết buộc các bên tham gia tranh chấp phải thực hiện.
- Toà án: là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan Tòa án của nhà nước thực hiện. Thông thường thì hình thức giải quyết tranh chấp thông qua Toà án được tiến hành khi mà việc áp dụng biện pháp thương lượng hoặc hoà giải không có hiệu quả và các bên tranh chấp cũng không thỏa thuận được vụ tranh chấp sẽ giải quyết bằng trọng tài.
6.1 PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI:
6.1.1 Thẩm quyền của trọng tài thương mại:
- Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với doanh nghiệp tư nhân, giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp tư nhân, giữa doanh nghiệp tư nhân với cá nhân kinh doanh.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động và giải thể công ty.
- Tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
6.1.2 Điều kiện để phát sinh thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại:
Trọng tài thương mại sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh doanh khi có các
điều kiện sau:
- Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc sau khi tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài: Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại.
- Còn thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài:
+ Trường hợp pháp luật có quy định thời hiệu khởi kiện thì thực hiện theo quy định đó.
+ Trường hợp pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện là hai năm kể từ ngày xảy ra tranh chấp, trừ trường hợp bất khả kháng.
6.1.3 Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài:
- Tranh chấp giữa các bên được giải quyết tại Hội đồng trọng tài do trung tâm trọng tài tổ chức hoặc do các bên thành lập (trọng tài vụ việc). Hội đồng trọng tài gồm 3 trọng tài viên hoặc Trọng tài viên duy nhất do các bên thỏa thuận.
Các bên có quyền lựa chọn Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài do các bên thành lập theo cách mà Pháp lệnh trọng tài thương mại quy định để giải quyết tranh chấp.
6.1.4 Hiệu lực của quyết định trọng tài:
Quyết định trọng tài là chung thẩm, các bên phải thi hành, trừ trường hợp Toà án hủy quyết định trọng tài.
Toà án trên cơ sở xét đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài hợp lệ và đối chiếu với Điều 54 Pháp lệnh trọng tài thương mại, nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra quyết định trọng tài thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Toà án ra quyết định hủy quyết định trọng tài:
- Không có thỏa thuận trọng tài.
- Thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo quy định tại Điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại.
- Thành phần Hội đồng trọng tài, tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên theo quy định của Pháp lệnh trọng tài thương mại.
- Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trong trường hợp quyết định trọng tài có 1 phần không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì phần quyết định này bị hủy.
- Bên yêu cầu chứng minh được trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp có Trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên quy định tại khoản 2, điều 13 Pháp lệnh trọng tài thương mại.
- Quyết định trọng tài trái với lợi ích công cộng của nước Việt Nam.
6.1.5 Thi hành quyết định trọng tài:
Sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, nếu bên phải thi hành không tự nguyện thi hành, cũng không yêu cầu hủy quyết định trọng tài thì bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, tổ chức thi hành quyết định trọng tài theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
6.2 PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH BẰNG TOÀ ÁN:
6.2.1 Tổ chức của Toà án kinh tế:
Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định Toà kinh tế được tổ chức ở hai cấp:
- Toà kinh tế thuộc Toà án nhân dân tối cao.
- Toà kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Ở cấp huyện, tuy không tổ chức toà kinh tế nhưng Toà án nhân dân cấp huyện cũng có thẩm quyền giải quyết những vụ án kinh tế theo quy định của pháp luật tố tụng (phạm vi hẹp và giá trị tranh chấp nhỏ).
Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế là quyền hạn và nghĩa vụ của Toà án kinh tế trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp kinh tế. Khi xảy ra tranh chấp kinh tế, cần xác định rõ nó thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nào. Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong việc thụ lý, chuẩn bị hồ sơ và giải quyết tranh chấp kinh tế, cũng như việc thi hành bản án, quyết định của Toà án kinh tế.
6.2.2 Thẩm quyền của Toà án kinh tế:
a. Thẩm quyền theo vụ việc của Toà án
Theo Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và các văn bản hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao, Toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế sau:
- Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh (bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, hộ kinh doanh cá thể).
- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động và giải thể công ty.
- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu: bao gồm các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu đã phát hành hoặc mới sắp phát hành của công ty cổ phần, công ty TNHH 1 thành viên và kể cả trái phiếu của Chính phủ.
- Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật như tranh chấp trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán, tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài...
b. Thẩm quyền của Toà án các cấp:
- TAND cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp hợp đồng kinh tế mà giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng, trừ trường hợp có nhân tố nước ngoài.
- Toà kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ có thẩm quyền:
+ Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án kinh tế quy định tại Điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án tranh chấp kinh tế, trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện. Trong trường hợp cần thiết Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết các vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền cấp huyện.
+ Phúc thẩm những vụ án kinh tế mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới do bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
+ Giải quyết việc phá sản doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
+ Ủy ban thẩm phán TAND cấp tỉnh giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án kinh tế mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng nghị.
- Toà kinh tế thuộc TAND tối cao có thẩm quyền:
+ Xét xử theo thủ tục phúc thẩm các bản án sơ thẩm của Toà kinh tế thuộc TAND cấp
tỉnh.
+ Xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án kinh tế mà bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà kinh tế TAND cấp tỉnh bị kháng nghị.
c. Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ:
Luật quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế là Toà án nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú; trong trường hợp vụ án chỉ liên quan đến bất động sản thì Toà án nơi có bất động sản giải quyết.
d. Thẩm quyền của Toà án theo sự lựa chọn của nguyên đơn:
Nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án để yêu cầu giải quyết các tranh chấp kinh tế trong các trường hợp sau:
- Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối cùng của bị đơn giải quyết vụ án.
- Nếu vụ án phát sinh từ hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó giải quyết vụ án.
- Nếu vụ án phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của 1 trong các bị đơn giải quyết vụ án.
- Nếu vụ án không chỉ liên quan đến bất động sản, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có bất động sản, nơi có trụ sở hoặc cư trú của bị đơn giải quyết vụ án.
- Nếu vụ án có liên quan đến bất động sản ở nhiều nơi khác nhau, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án ở 1 trong các nơi đó giải quyết vụ án.
e. Chuyển vụ án cho Toà án khác và phương thức giải quyết tranh chấp thẩm quyền:
Toà án đã thụ lý vụ án xét thấy không thuộc thẩm quyền của mình thì phải chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án khác có thẩm quyền ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình hoặc hướng dẫn cho nguyên đơn chuyển đơn đến Toà án đúng thẩm quyền khi xác định đủ yếu tố. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế do Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết.
6.2.3. Các nguyên tắc chung trong việc giải quyết các vụ án kinh tế:
- Nguyên tắc đảm bảo cho đương sự có quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự.
- Nguyên tắc Toà án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ.
- Trách nhiệm hoà giải của Toà án.
- Nguyên tắc đảm bảo bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự.
- Nguyên tắc xét xử công khai.
- Nguyên tắc giải quyết các vụ án kinh tế nhanh chóng, kịp thời.
- Tiếng nói và chữ viết dùng trong quá trình giải quyết vụ án.
- Đại diện do ủy quyền.
- Hiệu lực pháp luật của các bản án và quyết định của Toà án kinh tế.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.
6.2.4. Thành phần tham gia tố tụng vụ án kinh tế:
- Hội đồng xét xử:
+ Sơ thẩm: 2 thẩm phán và 1 hội thẩm nhân dân.
+ Phúc thẩm: 3 thẩm phán.
+ Giám đốc thẩm, tái thẩm: 3 thẩm phán.
- Các đương sự: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
- Người đại diện do đương sự ủy quyền: việc ủy quyền phải làm thành văn bản hợp lệ theo quy định.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Người giám định.
- Người làm chứng.
- Người phiên dịch.
- Viện kiểm sát nhân dân.
6.2.5. Thủ tục xét xử sơ thẩm án kinh tế:
a. Khởi kiện và thụ lý:
- Khởi kiện vụ án kinh tế là việc cá nhân, pháp nhân theo thủ tục pháp luật quy định gửi đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp kinh tế để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Người khởi kiện phải làm đơn trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp.
Kèm theo đơn phải có các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn.
- Thụ lý vụ án kinh tế: Toà án nhận được đơn khởi kiện phải xem xét, nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình thì phải thông báo cho nguyên đơn biết, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí trong thời gian 07 ngày kể từ ngày được Toà án thông báo, sau đó Toà án vào sổ thụ lý vụ án.
Toà án chỉ tiến hành thụ lý và giải quyết các tranh chấp kinh tế khi có đủ các điều kiện
sau:
+ Bên khởi kiện phải làm đơn khởi kiện và nộp kèm theo các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình.
+ Người khởi kiện phải có quyền khởi kiện.
+ Vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
+ Đơn kiện phải được nộp trong thời hiệu khởi kiện.
+ Sự việc chưa được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.
+ Người khởi kiện đã nộp tạm ứng án phí.
b. Chuẩn bị xét xử:
Giai đoạn này Toà án phải tiến hành các công việc sau:
- Thông báo cho bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết nội dung
đơn kiện trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án.
- Toà án có thể tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật của vụ án trong những trường hợp cần thiết, nhưng không có nghĩa vụ điều tra.
- Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Toà án lập biên bản hoà giải thành và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, quyết định này có hiệu lực pháp luật. Nếu các đương sự không thể thỏa thuận được với nhau thì Toà án phải lập biên bản hoà giải không thành và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
c. Phiên toà xét xử sơ thẩm:
- Trong thời hạn 10 ngày (hoặc 20 ngày nếu có lý do chính đáng) kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà xét xử sơ thẩm.
Việc xét xử tại phiên toà phải diễn ra liên tục, trực tiếp và băng lời nói. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử sẽ kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ các chứng cứ đã được thu thập, đã xác minh để trên cơ sở đó vận dụng pháp luật giải quyết vụ án chính xác, khách quan và đúng pháp luật.
- Trình tự thủ tục của phiên toà xét xử sơ thẩm:
+ Thủ tục bắt đầu phiên toà.
+ Xét hỏi tại phiên toà.
+ Tranh luận tại phiên toà.
+ Nghị án.
+ Tuyên án.
6.2.6. Thủ tục phúc thẩm:
- Sau khi xét xử sơ thẩm, đương sự hoặc người đại diện của đương sự được quyền kháng cáo: Viện kiểm sát có quyền kháng nghị để xét xử theo thủ tục phúc thẩm vụ án kinh tế, nhằm đảm bảo việc xét xử khách quan, công bằng, đúng pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và khắc phục sửa chữa những sai sót trong xét xử sơ thẩm.
- Chủ thể của quyền kháng cáo là đương sự hoặc người đại diện của đương sự. Thời hạn kháng cáo là 10 ngày kể từ ngày Toà án sơ thẩm tuyên án hoặc ra quyết định.
- Chủ thể của quyền kháng nghị là Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc trên 1 cấp. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 10 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên là 20 ngày kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định.
- Toà án cấp phúc thẩm phải mở phiên toà phúc thẩm trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận đủ hồ sơ vụ án.
- Thành phần hội đồng xét xử gồm 3 thẩm phán.
- Thủ tục giống phiên toà sơ thẩm nhưng trước khi xem xét kháng cáo, kháng nghị thì 1 thành viên của Hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung của kháng cáo, kháng nghị.
6.2.7. Thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật:
a. Thủ tục giám đốc thẩm:
- Giám đốc thẩm là 1 thủ tục tố tụng trong đó Toà án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp đối với những bản án đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới trên cơ sở có kháng nghị của người có thẩm quyền.
Thời hạn kháng nghị là 9 tháng, kể từ ngày bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
- Người có quyền kháng nghị:
+ Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp.
+ Phó Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND địa phương.
+ Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện.
- Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm:
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
+ Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ
án.
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
b. Thủ tục tái thẩm:
- Tái thẩm là 1 giai đoạn tố tụng, trong đó Toà án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp và tính
có căn cứ đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới do phát hiện những tình tiết mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án trên cơ sở có kháng nghị của người có thẩm quyền.
Thời hạn kháng nghị là 1 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
- Người có quyền kháng nghị:
Giống thủ tục giám đốc thẩm ngoại trừ Phó chánh án TANDTC, Phó Viện trưởng VKSNDTC không có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
- Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm:
+ Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được khi giải quyết vụ án.