Giải Quyết Tranh Chấp Tại Tòa Án Quốc Tế Về Luật Biển

Các quốc gia và tổ chức đệ trình các bản báo cáo bằng văn bản hoặc bằng lời được phép thỏa luận các báo cáo của các quốc gia hoặc các tổ chức khác ở hình thức giới hạn và trong thời hạn do Tòa hoặc do Chánh án Tòa án quyết định trong từng trường hợp riêng biệt (nếu như Tòa án không họp). Để đạt được mục đích này, thư ký Tòa thông báo, trong thời hạn cần thiết, tất cả những bản báo cáo bằng văn bản đó cho các nước và các tổ chức đã gửi những bản báo cáo tương tự [34].

Theo quy định tại Điều 67: Tòa án sẽ đưa ra kết luận tư vấn của mình trong phiên họp công khai đã được báo cáo trước cho Tổng thư ký và các đại diện của các thành viên của Liên hợp quốc trực tiếp có liên quan và cho đại diện của các nước và các tổ chức quốc tế khác.

2.2.2. Giải quyết tranh chấp tại Tòa án quốc tế về Luật biển

Tòa án quốc tế về Luật biển là cơ quan tài phán độc lập và thường trực được thành lập và hoạt động theo quy định của Công ước 1982 và quy chế Tòa án theo Phụ lục VI Công ước 1982. Tòa án đặt trụ sở tại Hăm-Buốc, Cộng hòa Liên bang Đức.

2.2.2.1. Thành phần của Tòa án quốc tế về Luật biển

Theo quy định tại khoản 1, Điều 2, Mục 1, Phụ lục VI Công ước 1982 Tòa án quốc tế về Luật biển gồm 21 Thẩm phán được tuyển chọn trong số các nhân vật có uy tín nhất về công bằng và liêm khiết, có năng lực chuyên môn trong lĩnh vực Luật biển.

Thành phần của Thẩm phán phải đảm bảo có sự đại diện của các hệ thống pháp lý chủ yếu trên thế giới và một sự phân chia công bằng về mặt địa lý và không thể có 2 Thẩm phán là công dân của một quốc gia.

Mỗi nhóm theo địa lý do Đại hội đồng Liên hợp quốc xác định, phải có ít nhất 3 thành viên trong Tòa án

Cuộc bầu cử đầu tiên đã được tiến hành vào ngày 1/8/1996, dù không đảm bảo thời gian là sáu tháng sau ngày công ước có hiệu lực như quy định tại khoản 3, Điều 4, Mục 1, Phụ lục VI Công ước năm 1982. Kết quả bầu cử thành phần Thẩm phán đầu tiên của Tòa năm 1996 cho thấy các nước đang phát triển có vai trò ngày càng tăng trong hệ thống pháp luật quốc tế, cũng như sự thắng thế của những nước này sau hội nghị thành lập Tòa án quốc tế về Luật biển đầu tiên [4].

Các thành viên của Tòa có nhiệm kỳ chín năm và có thể được tái cử. Tuy nhiên, đối với các thành viên được bầu cử ở cuộc bầu cử đầu tiên, bảy người sẽ mãn nhiệm sau ba năm và bảy người khác sẽ mãn nhiệm sau sáu năm. Vào năm 2002, thời hạn sáu năm dành cho bày vị Thẩm phán đều tiên đã kết thúc. Năm 2005, thành phần Thẩm phán của Tòa án quốc tế về Luật biển trong lần bầu cử đầu tiên đã được thay đổi hoàn toàn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Ngoài Thẩm phán được bầu theo nhiệm kỳ cố định thì một hoặc các bên tranh chấp có quyền đề cử Thẩm phán Ad Hoc. Theo đó, để đảm bảo sự bình đẳng trước Tòa, các bên có quyền loại bỏ Thẩm phán mang quốc tịch của một trong các bên tranh chấp hoặc có thể lựa chọn một Thẩm phán Ad Hoc mang quốc tịch của nước mình để bổ sung vào thành phần của Tòa án. Các thẩm phán này cũng phải là người có phẩm chất đạo đức, năng lực thật sự trong lĩnh vực Luật biển, hoặc những luật gia có uy tín trong lĩnh vực này. Với những quy định về việc chỉ định Thẩm phán Ad Hoc, Công ước đã góp phần bảo vệ quyền lợi của các bên trong vụ tranh chấp. Tuy nhiên, việc có thể giành chiến thắng hay không còn phụ thuộc vào năng lực của Thẩm phán mà họ đã lựa chọn. Cần lưu ý rằng, đây là quyền của các bên tranh chấp.

Trong mọi trường hợp, Tòa án phải đảm bảo số lượng thành viên tối thiểu tham gia xét xử là 11 thành viên được bầu. Để đảm bảo tính độc lập của Thảm phán, một thành viên của Tòa án không thể đảm nhiệm bất kỳ chức vụ chính trị hay hành chính nào, cũng như không được chủ động tham gia hay có liên quan về tài chính trong một hoạt động nào của một xí nghiệp đang tiến hành thăm dò hoặc khai thác các tài nguyên ở biển hay ở đáy biển hoặc một việc sử dụng biển hay đáy biển vào mục đích thương mại khác. Hay, một thành viên của Tòa án không thể tham gia vào việc giải quyết một vụ kiện nào mà trước đây ông ta đã tham dự với tư cách đại diện, cố vấn hay luật sư của một trong các bên, hay với tư cách thành viên của một Tòa án quốc gia hay quốc tế hay bất cứ danh nghĩa nào khác. Trong trường hợp Thẩm phán thấy răng không thể tham gia vào việc giải quyết một vụ tranh chấp nhất định thì phải báo việc này cho Chánh án. Ngược lại, nếu Chánh án thấy một thành

Áp dụng Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc nhằm giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay - 6

viên của Tòa, vì một lý do đặc biệt, không được tham gia trong một vụ kiện nhất định, thì báo cho thành viên đó. Trong khi thi hành các chức trách của mình, các thành viên của Tòa án được hưởng các đặc quyền miễn trừ ngoại giao.

- Chánh án, Phó chánh án: Tòa án bầu ra Chánh án, Phó chánh án với nhiệm kỳ ba năm, các vị này có thể được bầu lại. Chánh án sẽ điều khiển các buổi họp của Tòa án, chỉ đạo các công việc và giám sát bộ máy hành chính của Tòa.

- Ban thư ký Tòa án: Ban thư ký Tòa án là một cơ quan hành chính thường trực của Tòa án. Vai trò của Ban thư ký Tòa án được quy định trong các điều từ Điều 32 đến Điều 39 của Nội quy Tòa án. Đây là cơ quan đảm trách các dịch vụ tư pháp, là bên liên lạc giữa Tòa án với các quốc gia thành viên và các bên khác có liên quan.

Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển: Thành phần của Viện này gồm 11 thành viên do Tòa án lựa chọn trong các thành viên đã được bầu của Tòa theo đa số các thành viên đó.

Việc lựa chọn các thành viên của Viện phải đảm bảo sự đại diện cho các hệ thống pháp luật chủ yếu trên thế giới và nguyên tắc phân chia công bằng về mặt địa lý. Các thành viên của Viện được lựa chọn ba năm một lần và chỉ có thể được lựa chọn thêm một nhiệm kỳ.

Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển có thẩm quyền xét xử những loại tranh chấp về những hoạt động tiến hành trong vùng theo Điều 187 Công ước năm 1982. Ngoài ra, theo Điều 191 Công ước 1982, Viện còn có thẩm quyền đưa ra các ý kiến tư vấn theo yêu cầu của Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an về các vấn đề pháp lý đặt ra trong khuôn khổ hoạt động của họ.

Ngoài ra, Tòa án có thể lập ra các Viện đặc biệt, gồm ít nhất là ba thành viên được bầu để xét xử các vụ kiện nhất định, nếu thấy cần thiết. Nhằm giải quyết nhanh các vụ kiện, mỗi năm Tòa án lập ra một viện gồm năm thành viên được bầu để xét xử theo thủ tục rút gọn.

Ngày 14/7/1997, Tòa án quốc tế về Luật biển đã thành lập hai viện đặc biệt gồm: Viện giải quyết các tranh chấp về môi trường biển (gồm 7 Thẩm phán) giải

quyết các vấn đề về bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, Viện giải quyết các tranh chấp về đánh cá (gồm 7 Thẩm phán) có thẩm quyền giải quyết các vấn đề về giữ gìn và quản lý các nguồn sinh vật biển.

Sự ra đời của hai viện này giúp nâng cao tính chuyên môn của Tòa án trong quá trình giải quyết các tranh chấp xảy ra trong các lĩnh vực này. Mọi phán quyết của một trong số các Viện này. Mọi phán quyết của một trong số các Viện này có giá trị hiệu lực như phán quyết của Tòa án.

2.2.2.2. Quyền được đưa vấn đề tranh chấp ra Tòa án quốc tế về Luật biển

Theo quy định tại Điều 20, Mục 2, Phụ lục VI về quyền được đưa vấn đề tranh chấp ra Tòa án Luật biển, theo đó tòa án để ngỏ cho các quốc gia thành viên. Có nghĩa là, về nguyên tắc, các quốc gia thành viên của Công ước 1982 là thành viên đương nhiên của Tòa án.

Bên cạnh đó, Tòa án cũng để ngỏ cho các thực thể không phải là các quốc gia thành viên trong tất cả các trường hợp đã được quy định rò hơn của Công ước.

2.2.2.3. Thẩm quyền của Tòa án quốc tế về Luật biển

Tòa án quốc tế về luật biển có thẩm quyền đối với tất cả các yêu cầu được đưa ra Tòa theo đúng Công ước, và đối với tất cả các trường hợp được trù định rò trong mọi thỏa thuận khác, trao quyền cho Tòa án

Điều đó có nghĩa là, cũng như Tòa án công lý, thẩm quyền của Tòa án luật biển cũng chỉ được thiết lập khi được các bên đương sự thỏa thuận trao cho Tòa án thẩm quyền giải quyết tranh chấp có liên quan.

Ngoài ra, theo Điều 138 Nội quy của Tòa án quốc tế về Luật biển, Tòa án này có thể cho ý kiến tư vấn về vấn đề pháp lý trong trường hợp có một điều ước quốc tế có liên quan đến tôn chỉ, mục đích của Công ước.

2.2.2.4. Thủ tục tố tụng của Tòa án quốc tế về Luật biển

Theo quy định tại khoản 1, Điều 24, Mục 3, Phụ lục VI Công ước 1982: “Tùy theo trường hợp, các vụ tranh chấp có thể được đưa ra Tòa án hoặc thông qua về một thỏa thuận dựa vào trọng tài hoặc thông qua đơn thỉnh cầu gửi cho thư ký Tòa án” [42].

Quy định này có thể thấy rằng, các bên tranh chấp có thể đưa ra Tòa theo ba phương thức sau đây:

Một là, các bên có thể thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra trước Tòa hoặc; Hai là, thông qua thông báo về một thỏa hiệp dựa vào trọng tài, hoặc; Ba là, qua đơn thỉnh cầu của các bên tranh chấp gửi cho thư ký Tòa án.

Tuy nhiên, dù theo phương thức nào, các bên tranh chấp cũng phải trình bày rò nội dung của tranh chấp để chuyên cho Tòa án.

Thủ tục tố tụng tại Tòa án bao gồm những bước sau:

Thứ nhất, các bên nộp đơn kiện lên Tòa án cùng tất cả các hồ sơ cần thiết cho vụ kiện thông qua thư ký Tòa án. Ngày thư ký nhận được đơn kiện được coi là ngày chính thức bắt đầu thủ tục xét xử của Tòa án

Thứ hai, Tòa án tiến hành xác định thẩm quyền của Tòa án, xem xét các yêu cầu liên quan đến biện pháp bảo đảm trong trường hợp cần thiết, khả năng hợp nhất các vụ kiện; xem xét việc tham gia của một bên thứ ba; đình chỉ vụ kiện và xem xét khả năng xử vắng mặt (thẩm quyền hình thức hay thẩm quyền tố tụng). Nếu có đủ cơ sở pháp lý khẳng định vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa, đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế và pháp lý, Tòa sẽ tiến hành xét xử tranh chấp đó.

Thứ ba, Tòa án tiến hành xét xử về mặt nội dung. Phiên tòa được mở công khai, trừ khi Tòa án có quyết định khác, hoặc khi các bên yêu cầu xử kín. Phiên tòa sẽ do Chánh án chủ tọa, nếu Chánh án không thể tham gia xét xử thì phiên tòa sẽ do Phó chánh án chủ tọa. Trong trường hợp cả Chánh án và Phó chánh án không thể tham gia xét xử được thì Thẩm phán lâu năm nhất trong số các Thẩm phán của Tòa có mặt sẽ làm chủ tọa.

Trong trường hợp một trong các bên không ra Tòa hay không trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Tòa án tiếp tục tố tụng và ra quyết định. Việc một bên vắng mặt hay không trình bày các lý lẽ của mình không cản trở trình tự tố tụng.

Để giải quyết về nội dung, các bên tranh chấp phải nộp cho Tòa án bản bị vong lục trong thời hạn sáu tháng. Tòa án sẽ họp kín để các Thẩm phán xem xét, trao đổi quan điểm về hướng giải quyết vụ kiện.

Thứ tư, Tòa án nghị án và ra các phán quyết theo đa số các thành viên có mặt. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau, phiếu của Chánh án hay của người thay thế Chánh án là phiếu quyết định. Nội dung phán quyết của tòa án phải nêu rò:

Căn cứ giải quyết tranh chấp;

Tên của các thành viên của Tòa án đã tham gia giải quyết; Ý kiến cụ thể của các thành viên của Tòa;

Chánh án và thư ký Tòa án phải ký vào bản án, bản án phải được đọc công khai, các bên tranh chấp phải được báo trước.

Cần chú ý rằng, Theo quy định của Công ước 1982, các quốc gia thành viên có thể can dự (yêu cầu tham gia) trong một vụ tranh chấp, khi họ cho rằng các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ bị xâm phạm. Trong trường hợp này, họ sẽ gửi cho Tòa án đơn thỉnh cầu tham gia. Tòa án có thẩm quyền quyết định chấp nhận hay không chấp nhận đơn thỉnh cầu đó. Trong trường hợp Tòa án chấp nhận đơn thỉnh cầu tham gia của bên thứ ba, thì quyết định liên quan đến vụ tranh chấp có tính chất bắt buộc đối với quốc gia xin tham gia trong phạm vi mà quyết định này có liên quan đến nội dung mà bên thứ ba xin tham gia.

2.2.2.5. Giá trị phán quyết của Tòa án quốc tế về Luật biển

Phán quyết của Tòa án có tính chất tối hậu và tất cả các bên trong vụ tranh chấp đều phải tuân thủ;

Phán quyết của Tòa chỉ có tính chất bắt buộc đối với các bên tranh chấp và cả đối với các trường hợp đã được quyết định;

Trong trường hợp có sự tranh cãi về ý nghĩa và phạm vi của phán quyết, thì Tòa án có trách nhiệm giải thích theo yêu cầu của bất kỳ bên nào.

2.2.3. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế

Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp quốc tế theo đó, các quốc gia là các bên tranh chấp sẽ thỏa thuận trao cho một hoặc một số cá nhân (Trọng tài viên) thẩm quyền giải quyết các tranh chấp có liên quan.

Trong thực tiễn quan hệ quốc tế và giải quyết tranh chấp quốc tế, hình mẫu Trọng tài hiện đại được ghi nhận lần đầu tiên là Tòa trọng tài quốc tế được thành lập

theo Hiệp ước JAY (Hiệp định hữu nghị về thương mại và hàng hải) giữa Anh và Mỹ, ký ngày 19/11/1974 để giải quyết các vấn đề liên quan giữa hai nước sau cuộc chiến tranh giành độc lập của nước Mỹ. Theo hiệp định này, Hội đồng trọng tài được thành lập gồm 3 thành viên nhằm xác định đường biên giới trên song Sainte Croix, và xem xét những kiến nghị của từng quốc gia phát sinh trong thời kỳ chiến tranh giành độc lập của Mỹ. Từ đó đến nay, có rất nhiều Tòa trọng tài được thành lập để giải quyết tranh chấp như Trọng tài hành chính của tổ chức lao động thế giới, Trọng tài hành chính của ngân hàng thế giới, Trọng tài về Li Bi, Tòa trọng tài Luật biển, Trọng tài về truy cứu trách nhiệm về tội ác chiến tranh ở Ruanda; Tòa trọng tài thường trực La Haye…

Nghiên cứu mô hình tổ chức hoạt động, thẩm quyền của các Trọng tài quốc tế, có thể phân loại Trọng tài quốc tế thành các loại sau đây:

Thứ nhất, căn cứ vào số lượng trọng tài viên, Trọng tài quốc tế được phân thành Trọng tài cá nhân và trọng tài tập thể hay còn gọi là Hội đồng trọng tài (từ 3 thành viên trở lên).

Thứ hai, căn cứ vào thẩm quyền giải quyết tranh chấp, Trọng tài quốc tế được phân thành Trọng tài có thẩm quyền chung như Trọng tài thường trực quốc tế La Haye và Trọng tài có thẩm quyền chuyên môn như Trọng tài về Luật biển, Trọng tài của tổ chức thương mại thế giới WTO…

Thứ ba, Căn cứ vào tính chất hoạt động, Trọng tài quốc tế được phân thành Trọng tài vụ việc (Ad Hoc) và Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế).

Tuy nhiên, so với Tòa án công lý quốc tế học viên cho rằng, Trọng tài quốc tế không tạo ra một thực tiễn xét xử ổn định như Tòa án công lý quốc tế vì nó chỉ được thành lập ra hoặc thừa nhận để giải quyết các vụ việc cụ thể theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Trọng tài quốc tế không có chức năng đưa ra kết luận tư vấn pháp lý và chi phí Trọng tài do các bên tranh chấp gánh chịu [5].

Về thẩm quyền, cũng giống như Tòa án công lý quốc tế, trọng tài quốc tế không có thẩm quyền đương nhiên giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Chính vì vậy, các quốc gia là các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận xây dựng thủ tục Trọng

tài để giải quyết tranh chấp bằng việc ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương về Trọng tài (compromise d’arbitrage obligatoire) hoặc các điều khoản về Trọng tài (clauses compromissoires). Nội dung các điều ước quốc tế hoặc các điều khoản về thành lập trọng tài Ad Hoc phải chứa đựng các nội dung cơ bản sau:

+ Các bên tranh chấp;

+ Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài;

+ Đối tượng tranh chấp;

+ Trình tự, thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp;

+ Nguồn luật áp dụng giải quyết tranh chấp;

+ Phương thức thi hành phán quyết của Trọng tài.

Cũng như Tòa án công lý quốc tế, phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm,bắt buộc thi hành đối với các bên tranh chấp. Tuy nhiên, phán quyết của Trọng tài có thể được xem xét lại khi có những tình tiết, điều kiện mới làm ảnh hưởng đến nội dung của phán quyết mà trước đó Tòa trọng tài chưa biết đến.

Mặt khác, phán quyết Trọng tài sẽ bị coi là vô hiệu nếu điều ước quốc tế hoặc điều khoản về Trọng tài mà các bên ký kết vô hiệu hoặc Trọng tài giải quyết vượt quá thẩm quyền được các bên thỏa thuận hoặc thành viên hội đồng Trọng tài bị mua chuộc hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc, Trọng tài đã vi phạm thủ tục tố tụng.

Qua nghiên cứu biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế bằng trọng tài quốc tế chúng ta có thể rút ra một số ưu điểm và hạn chế sau đây:

Về ưu điểm, giải quyết tranh chấp quốc tế bằng Trọng tài quốc tế là biện pháp giải quyết tranh chấp linh hoạt và mềm dẻo. Bởi lẽ, biện pháp này cho phép các bên tranh chấp có quyền lựa chọn trọng tài viên, thỏa thuận xây dựng quy chế trọng tài và các vấn đề liên quan khác trong quá trình chấp nhận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế (đặc biệt là Trọng tài Ad Hoc)

Mặt khác, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí cho các bên tranh chấp. Thời gian giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài nhanh hơn so với Tòa án quốc tế nên sẽ tránh được những tác động chủ quan và khách quan từ bên ngoài. Với cơ chế “giải quyết bí mật”, Trọng tài quốc tế sẽ giữ

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí