Nguyên Nhân Cơ Bản Gây Nên Biến Động Giá Cả Xăng Dầu Trên Thị Trường Việt Nam Giai Đoạn 2004-2008

4. Nguy cơ lạm phát

Lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá cung trong nền kinh tế. Với người tiêu dùng, lạm phát gần như là một loại thuế vô hình đánh vào họ, và những người chịu hậu quả nặng nề nhất của thứ thuế này là những người có thu nhập cố định, không được điều chỉnh theo mức tăng giá như công nhân viên chức hưởng lương cố định theo ngạch của Nhà nước, người nghỉ hưu, sinh viên….. Đối với ngân hàng, lạm phát cũng gây nên áp lực tăng lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay, khiến các ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh tín dụng. Đối với doanh nghiệp sản xuất vật chất, lạm phát khiến giá cả đầu vào tăng, khiến giảm lượng tiêu thụ và áp lực tăng lương từ người lao động. Nói tóm lại, khi giá cả trung bình của các mặt hàng tăng cao, ảnh hưởng của nó có tính chất lan tỏa, tác động toàn diện tới các lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng khác. Ảnh hưởng của lạm phát sẽ giảm sức mua của người nghèo và hơn nữa, khi lạm phát vượt qua ngưỡng nhất định thì sẽ làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của nền kinh tế.50

Do xăng dầu là một trong những mặt hàng quan trọng trong rổ hàng hóa tiêu dùng để chỉ số CPI nên sự gia tăng liên tục của mặt hàng này sẽ trực tiếp làm CPI tăng lên, tức là đẩy chỉ số lạm phát lên cao. Theo thống kê của tạp chí thị trường giá cả (số tháng 06-2006) trong 4 tháng đầu năm 2004: sau đợt điều chỉnh giá xăng dầu vào tháng 02 tăng 5,6%-9% đẩy chỉ số giá tiêu dùng tăng 5,4%, 4 tháng đầu năm 2005: điều chỉnh giá xăng dầu tháng 03 tăng 6%-12% đẩy chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,3%, 4 tháng đầu năm 2006 chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng 3% thấp hơn cùng kì trước đó. Trong báo cáo Triển vọng phát triển châu Á 2007 của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) cho biết lạm phát ở Việt Nam đang có xu hướng tăng cao trong những năm gần đây. Lạm phát trung bình năm 2005 là 8,3%, 2006 là 7,5% và 7,3% tại thời điểm tháng 08 năm 2007. Lạm phát cả năm 2007 là 12,6% tăng vượt so với

50 Nguyễn Trọng Hoài, Ổn định lạm phát- cái giá phải trả, (2005), www.business.hotline.com.vn

dự tính.51 Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2008 giảm 0,68% so với tháng 11, nhưng so với tháng 12/2007 tăng 19,89% và chỉ số giá bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 22,97%; đặc biệt, so với kỳ gốc năm 2005 đã tăng 46,07%. Nhìn chung, trong năm 2008 có 4 nhóm hàng có chỉ số giá bình quân tăng cao so với năm trước là: hàng ăn - dịch vụ ăn uống tăng 36,57% (riêng lương thực tăng 49,16%, thực phẩm tăng 32,36%); nhà ở - vật liệu xây dựng tăng 20,51%; phương tiện đi lại - bưu điện tăng 16% và đồ dùng - dịch vụ khác tăng 13,17%52. Điều đáng chú ý là mức lạm phát trung bình của Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực. Cụ thể, mức trung bình các nước đang phát triển là thành viên của ADB là 3,4% năm 2005 và 3,3% năm 2006.53

Do xăng dầu là yếu tố đầu vào của hầu hết các ngành kinh tế, nên khi giá đầu vào tăng trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, sẽ kéo theo giá đầu ra sản phẩm tăng dẫn đến chỉ số giá cả nói chung gia tăng, ảnh hưởng tới sức mua của xã hội và gây ra áp lực lạm phát, đây chính là lạm phát thông qua hiện tượng giá cánh kéo. Phản ứng dây chuyền tăng giá sẽ khiến doanh nghiệp đứng trước 2 sự lựa chọn: nếu giữ nguyên mức giá cũ thì sẽ dẫn tới thua lỗ hoặc phá sản, hoặc tăng giá nếu muốn giữ nguyên sản lượng. Nếu nhiều doanh nghiệp ngừng sản xuất sẽ tạo ra cung không đủ so với cầu và kéo theo tăng giá chung trong nền kinh tế và lạm phát xảy ra. Ngược lại, nếu nhiều doanh nghiệp cùng tăng giá thì sẽ làm tăng giá diện rộng cũng sẽ làm tăng mức giá chung trong nền kinh tế.

Như đã biết, trong vòng 4 năm (2004-2007), giá dầu thô trên thế giới tăng gấp đôi, từ 31,5 USD/thùng (2003) lên tới 65 USD/thùng (2007), đặc biệt


51 Website: http://vtc.vn

52 Website: http://www.vir.com.vn/Client/Dautu/dautu.asp?CatID=87&DocID=17977

53 Tổng hợp từ trang Thông tin thương mại: http://www.thongtinthuongmaivietnam.com.vn/IWINews.aspx?CatalogID=1979&ID=56746, tra cứu 20/03/2009

tháng 07/2008 giá xăng dầu tăng kỉ lục gần 150 USD/thùng dẫn đến giá cả xăng dầu thế giới cũng tăng nhanh. Nếu lấy theo mức giá xăng dầu của mặt bằng chung của thị trường thế giới áp dụng vào giá xăng dầu trong nước trong thời gian qua, thì tốc độ lạm phát ở nước ta cho đến nay còn cao hơn nhiều so với những con số thống kê ở trên. Song do mục tiêu tăng trưởng kinh tế, hàng năm nhà nước phải chi ra hàng nghìn tỷ đồng từ bù lỗ xăng dầu hoặc thất thu từ việc giảm thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, theo chính sách hội nhập kinh tế, từ nay sẽ điều chỉnh giá xăng dầu trong nước theo cơ chế thị trường, nghĩa là khả năng tiệm cận với giá thế giới, thì việc kiểm soát lạm phát không phải là một bài toán đơn giản.‌

III. NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN GÂY NÊN BIẾN ĐỘNG GIÁ CẢ XĂNG DẦU TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004-2008

1. Nguyên nhân:

1.1. Tác động của biến động giá xăng dầu trên thế giới trong thời gian qua

Giá xăng dầu trên thế giới chịu tác động lớn nhất từ giá dầu thô. Như đã biết, tất cả các sản phẩm xăng dầu đều được làm từ dầu thô thông qua quá trình lọc hóa dầu. Do đó, khi giá dầu thô biến động lập tức có ảnh hưởng tới thị trường xăng dầu trên toàn thế giới.

Trong vòng 5 năm 2004-2008 giá dầu thô trên thị trường thế giới biến động mạnh đặc biệt là trong năm 2008. Tính tới thời điểm cuối năm 2007, giá dầu thô đã tăng gấp đôi so với thời điểm năm 2004. Trong khi giá dầu thô trung bình năm 2004 ở mức 39 - 40 USD/thùng và cuối năm này giá dầu thô thế giới khoảng hơn 44USD/thùng thì năm 2007 giá dầu thô trung bình đã đến 73,72 USD/thùng và cuối năm 2007 đã tăng lên hơn 98 USD/thùng54. Và đặc biệt năm 2008 là năm thể hiện sự biến động sâu sắc và bất ổn nhất của thị trường dầu mỏ thế giới. Giá dầu mỏ thế giới đã liên tục tăng mạnh trong

54 Website: http://www.mot.gov.vn/mot/tag.idempotent.render.userLayoutRootNode.target.n140.uP?uP_root=me&cmd= item&ID=2228

những tháng đầu năm 2008 và đạt đỉnh điểm gần 150USD/thùng vào tháng 07/2008. Nhưng ngay sau đó giá dầu thô đã liên tục sụt giảm mạnh, giá dầu thô thế giới những ngày cuối năm 2008 ngày càng giảm sâu và đến ngày 03/12/2008 đã tụt xuống dưới 45 USD/thùng - mức thấp nhất kể từ tháng 02/2005, tức là gần 4 năm qua 55. Giá dầu thô đã giảm khoảng 70% do tình trạng suy giảm kinh tế đang lan rộng tác động tới nhu cầu năng lượng toàn cầu. Tuy nhiên giá dầu thô trên các thị trường luôn diễn biến theo 2 xu thế rõ rệt: tăng liên tục trong những tháng đầu năm sau đó lại giảm đáng kể. Song nhìn chung, các đợt tăng nhiều hơn các đợt giảm, đồng thời mức tăng luôn cao hơn mức giảm nên tính chung cả năm giá dầu thô luôn tăng cao hơn năm trước. Trong 2 năm gần đây, giá dầu thô trên thị trường thế giới dao động trong khoảng 60 - 65 USD/thùng/năm, thậm chí có giai đoạn như tháng 08/2007 giá dầu tăng tới 79,91 USD/thùng. Với tốc độ tăng nhanh và giá cả

cao như vậy nên đã ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả trên thị trường xăng dầu thế giới và khu vực. Lấy ví dụ giá xăng dầu giao ngay trên thị trường Singapore, một trong những thị trường nhập khẩu xăng dầu lớn của nước ta, giá xăng dầu tăng mạnh theo các năm. Năm 2004, giá xăng dầu mới chỉ có 82,38 cent/gallon đột ngột tăng lên 112,78 cent/gallon (2004) và tới năm 2006 đã lên tới 174,97 cent/gallon. Về nguyên tắc khi giá dầu thô trên thế giới tăng thì giá xăng dầu trong nước cũng tăng, nhưng không theo đúng biên độ mà có độ trễ nhờ lượng tồn kho. Có khi giá dầu thô giảm mà giá xăng chưa giảm ngay (do biến độ thường không cùng nhịp).

Những biến động trên thị trường xăng dầu thế giới do rất nhiều nguyên nhân gây ra. Trước hết là do cung không đủ đáp ứng cầu. Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới phát triển rất khả quan, đạt tốc độ 4,3% - 5%/năm. Điều này đã thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ dầu thô thế giới tăng nhanh


55 Website: http://dantri.com.vn/c36/s36-300264/nam-2008-nam-cua-nhung-cuoc-khung-hoang.htm

và dường như vượt quá khả năng gia tăng nguồn cung. Theo số liệu của cơ quan Thông tin năng lượng Thế giới EIA, mỗi năm nhu cầu tiêu thụ dầu thô trên toàn cầu tăng lên khoảng 1triệu thùng/ngày. Nhu cầu kỷ lục nhất vào giai đoạn 2003-2004, từ 79,6 triệu thùng/ngày tăng tới 82,33 triệu thùng/ngày (tăng 2,7 triệu thùng/ngày). Trong khi đó nguồn cung dầu tăng vẫn thấp hơn 0,1 đến 0,25 triệu thùng/ngày so với nhu cầu tiêu thụ56. Nguồn cung thiếu hụt

là nguyên nhân chủ yếu làm giá dầu tăng mạnh và duy trì ở mức cao trong suốt giai đoạn 2003 - 2007. Ngoài ra, những bất ổn về chính trị ở các nước cung cấp dầu mỏ lớn như chiến tranh ở Irac, căng thẳng tại Trung Đông, Venezuela, Igeria, những mâu thuẫn giữa Iran và Mỹ… cũng là nguyên nhân dễ thấy nhất làm giảm nguồn cung dầu.

Hơn nữa, giá sản phẩm xăng dầu tăng cao hơn giá dầu thô còn do trong 5 năm trở lại đây, có rất ít đầu tư vào việc xây mới các nhà máy lọc dầu, dẫn đến việc dư dầu thô nhưng lại thiếu xăng dầu. Tình trạng các nhà máy cũ nâng cấp hoặc xây dựng lại mới, công nghệ phải thay đổi để đáp ứng các yêu cầu bảo vệ môi trường cũng như để lọc các lọa dầu nặng, dầu chua, chi phí xây dựng đường ống dẫn hoặc đóng mới các tàu chở dầu hiện đại cộng với các đầu cơ và các tác động chính trị càng đẩy giá xăng dầu thế giới lên cao.

1.2. Nhu cầu về xăng dầu ngày càng gia tăng của xã hội

Nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây phát triển tương đối nhanh và ổn định, với tốc độ phát triển từ 8% đến 8,5% mỗi năm. Năng lượng phục vụ cho tất cả các hoạt động sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng càng trở nên thiết yếu hơn đối với đời sống sinh hoạt và sản xuất.

Trước khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động vào tháng 02/2009, lượng xăng dầu tiêu thụ trong nước hoàn toàn là từ nhập khẩu. Trong giai đoạn 2004 - 2008, lượng xăng dầu nhập khẩu nước ta hầu hết có khuynh hướng tăng. Kim ngạch nhập khẩu lại tăng nhanh do giá cả xăng dầu

56 Thị trường dầu thô thế giới bốn thập niên qua, (2005), Thị trường giá cả (08/2005)

thế giới tăng cao. Do nhu cầu vận tải đường bộ và đường thủy lớn nên lượng nhập khẩu tập trung chủ yếu vào xăng và dầu diesel. Hàng năm nước ta tiêu thụ trung bình khoảng gần 3 triệu m3 xăng57, trung bình mỗi tháng tiêu thụ 300 ngàn m3, do đó lượng xăng nhập khẩu luôn ở mức cao nhất trong các sản phẩm xăng dầu chung. Trong khi đó, nhu cầu về các sản phẩm xăng dầu còn lại có xu hướng giảm dần. Dưới đây là bảng tổng hợp tình hình nhập khẩu xăng dầu của nước ta trong giai đoạn 2004 - 2008:

Bảng 2.3: Tổng hợp lượng xăng dầu nhập khẩu giai đoạn 2004-2008

Đơn vị: Nghìn tấn


Tên sản phẩm

2004

2005

2006

2007

2008

Xăng dầu các loại

11047,8

11477,7

11212,67

12850

12960

Xăng

2604,4

2630,1

2849,315

4000


Dầu diesel

5479,6

5891,1

5662,927

6900


Dầu mazut

2117,9

2199,5

2013,24

1870


Dầu hóa

358,2

332,9

229,051

2990


Nhiên liệu máy

bay

425,8

424,2

459,145

240


Dầu nhờn

16,6

-

-

-


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Tổng quan về thị trường dầu mỏ thế giới và ảnh hưởng của biến động giá xăng dầu tới nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2004-2008 - 8

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống Kê 58

Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước đòi hỏi có nguồn năng lượng đủ lớn để phục vụ xây dựng đất nước. Mặc dù trên thực tế, nhu cầu về xăng dầu đối với sản xuất, sinh hoạt rất lớn và không hề giảm, song do giá cả xăng dầu tăng quá nhanh so với mức sống trung bình của người dân nên mức tăng có phần hạn chế. Ngoài ra, Nhà nước cũng chủ trương thực hiện tiết kiệm xăng dầu để đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2004- 2008, lượng xăng dầu nhập khẩu tăng với tốc độ không đồng đều, năm 2004,


57 Báo Vietnamnet: http://www.vietnamnet.vn/kinhte/2006/09/611138/, tra cứu 22/03/2009.

58 Website Tổng cục thống kê: http://www.gso.gov.vntra cứu ngày 25/03/2009

lượng nhập tăng 11%, tới năm 2005 chỉ tăng 4% và lại giảm 2% vào năm 2006, năm 2007 nhu cầu xăng dầu tăng cao, do đó theo số liệu thống kê lượng xăng dầu cần nhập khẩu khoảng 12,85 triệu tấn, năm 2008 lượng xăng dầu nhập khẩu tăng nhẹ 0,9% so với năm 2007 đạt 12,96 triệu tấn. Theo số liệu thống kê chính thức của Tổng cục Hải quan, tính đến nửa đầu tháng 03/2009, kim ngạch nhập khẩu xăng dầu các loại của cả nước đạt 1,945 triệu tấn, với kim ngạch đạt trên 778,3 triệu USD. Riêng trong tháng 02/2009, cả nước đã nhập về trên 1 triệu tấn xăng dầu các loại, tương đương 428,1 triệu USD, tăng 15,3% về lượng và 24,4% về trị giá so tháng trước, đồng thời tăng 1,2% về lượng nhưng giảm 21% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái59. Như vậy, mức tiêu thụ xăng dầu trung bình ở Việt Nam trong giai đoạn 2004-2008 vào khoảng 0,95-1,3 thùng/người/năm, vẫn thấp hơn mức trung bình của thế giới (5-6 thùng/người/năm). Trong vòng 15 năm nữa, khi nước ta trở thành nước

công nghiệp hiện đại, với dân số khoảng 100 triệu người, và giả sử mức tiêu thụ xăng dầu trong nước bằng mức trung bình của thế giới thì chúng ta cần tới 70 triệu tấn xăng dầu vào năm 202060. Tuy nhiên trên thực tế tới năm 2020 thì nhu cầu xăng dầu nước ta theo ước tính cũng chỉ đạt bằng một nửa so với mức trung bình của thế giới.

Có thể thấy xăng dầu là nguồn năng lượng chủ yếu được phân bổ trên lĩnh vực chủ yếu: sản xuất và tiêu dùng. Đối với hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, do kinh tế phát triển nhanh, các xí nghiệp, nhà máy càng có xu hướng mở rộng và phát triển sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu chung của xã hội và thu lợi nhuận. Đặc biệt đối với ngành giao thông vận tải, nhu cầu vận chuyển và vận tải ngày càng cao, số phương tiện tham gia lưu thông ngày càng nhiều nên nhu cầu tăng là không tránh khỏi. Ở các thành phố lớn thì hoạt động giao thông diễn ra càng nhiều điều đó xuất phát từ nhu cầu công việc,


59 Website tổng cục Hải Quan: http://www.customs.gov.vn

60 Tổng hợp từ báo điện tử Vietnamnet: www.vnn.vnwww.vietnamnet.vn, tra cứu ngày 25/03/2009

sinh hoạt nói chung. Khi mức sống được nâng cao, người ta nảy sinh những nhu cầu mới như đi du lịch, mua sắm và sử dụng các sản phẩm hiện đại. Đơn giản như trước kia xe đạp là một trong những phương tiện chủ yếu của mỗi cá nhân, gia đình. Khi kinh tế phát triển, đời sống cao hơn, người ta chuyển sang dùng phương tiện xe máy thay thế cho xe đạp do tính tiện dụng và hiện đại của nó. Với những cá nhân có thu nhập cao hơn nữa, họ sử dụng xe ga (loại xe tiêu hao nhiều xăng dầu hơn xe thông thường) và ô tô. Theo thống kê, lượng tiêu thụ các loại phương tiện giao thông này cũng không ngừng tăng trong những năm qua. Theo Bộ Công an thì năm 2005, tổng số xe máy trên cả nước có khoảng trên 16 triệu chiếc, cho tới năm 2007 đã đạt khoảng 20 triệu chiếc, ước tính 2010 cả nước sẽ có khoảng 25 triệu chiếc, trong khi đó, lượng ô tô hiện nay vào khoảng 800 nghìn chiếc và ước tính tăng tới 1,3 triệu chiếc vào năm 201061. Ngoài ra, các phương tiện khác như tàu hỏa, tàu thủy và đặc biệt máy bay ngày càng phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong vận chuyển hành khách và hàng hóa. Như vậy, có thể thấy xăng dầu trong hầu hết lĩnh

vực đều tăng cao song nguồn cung không tăng nhiều. Trong khi đó, nước ta vẫn đang phải phụ thuộc hoàn toàn vào lượng xăng dầu nhập khẩu khiến việc đáp ứng nhu cầu xăng dầu trong nước ngày càng khó khăn hơn. Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản có ảnh hưởng tới giá xăng dầu trong nước không chỉ trong giai đoạn hiện nay và cả trong tương lai, khi xăng dầu vẫn là nguồn năng lượng khó có thể thay thế.

1.3. Chính sách quản lý của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu

Ngoài nguyên nhân khách quan phụ thuộc vào mặt bằng giá xăng dầu thế giới, giá nhập khẩu xăng dầu còn phụ thuộc vào năng lực kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, trong đó bao gồm rất nhiều yếu tố như: kinh nghiệm chọn lựa, đàm phán với người bán hàng nước ngoài. Xăng dầu nước ta nhập khẩu


61 Tổng hợp từ trang www.vnmedia.vn(2007) và www.vnn.vn, tra cứu ngày 26/03/2009.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/09/2022