Lộ Trình Cam Kết Mở Cửa Thị Trường Phân Phối Của Việt Nam


- Các dịch vụ thương mại bán buôn


- Dịch vụ bán lẻ


- Dịch vụ cấp quyền kinh doanh


- Các dịch vụ phân phối khác


Theo GATS, việc cung cấp các loại dịch vụ này có thể được tiến hành theo một trong những bốn phương thức hoặc kết hợp giữa các phương thức sau (Điều 1, Khoản 2 - GATS):

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Phương thức 1: Cung ứng qua biên giới- dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ một nước này sang lãnh thổ một nước khác. Ví dụ, một công ty tư vấn tài chính của Mĩ tư vấn cho một công ty Việt Nam bằng điện thoại. Đặc điểm của loại hình này là chỉ có bản thân dịch vụ là đi qua biên giới, còn người cung cấp dịch vụ không có mặt tại nước nhận dịch vụ.

Phương thức 2: Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài - người tiêu dùng của một nước tiêu dùng dịch vụ tại lãnh thổ của một nước khác. Ví dụ, người du lịch Việt Nam đi du lịch sang Trung Quốc và tiêu dùng các dịch vụ du lịch do các cá nhân và công ty Trung Quốc cung cấp.

Dịch vụ bán lẻ của các siêu thị Việt Nam – cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhậP WTO - 9

Phương thức 3: Hiện diện thương mại - một công ty nước ngoài thành lập chi nhánh hoặc công ty con để cung cấp dịch vụ tại một nước khác. Ví dụ, một ngân hàng của Mĩ lập chi nhánh tại Việt Nam.

Phương thức 4: Sự hiện diện của thể nhân - công dân của một nước này cung cấp dịch vụ tại nước khác. Ví dụ, một giáo sư Mĩ được mời sang Việt Nam để giảng bài ở một trường đại học.

1.1.2 Các nguyên tắc pháp lý cơ bản


a, Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN): đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của GATS. Theo nguyên tắc này, chính phủ của nước thành viên


không được phép có sự phân biệt đối xử giữa các dịch vụ hoặc các nhà cung cấp dịch vụ của các nước thành viên mà phải dành cho họ sự đối xử không kém phần ưu đãi so với mức mà nước thành viên đó đã, đang và sẽ dành cho bên thứ ba nào đó (Điều II - GATS). Đây là nguyên tắc bắt buộc nhằm tạo một “sân chơi” bình đẳng cho các nhà dịch vụ nước ngoài trên thị trường của nước khác.

b, Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT): nguyên tắc này được xây dựng trên nền tảng của nguyên tắc không phân biệt đối xử và chỉ thực hiện trên cơ sở kết quả của các cuộc đàm phán và các cam kết về tiến trình tự do hoá dịch vụ giữa các thành viên. Nguyên tắc này chỉ áp dụng đối với các lĩnh vực và trong chừng mực nước đó cam kết thực hiện chứ không áp dụng đối với các lĩnh vực mà nước đó chưa cam kết.

c, Nguyên tắc minh bạch hoá hệ thống chính sách: theo nguyên tắc này tính minh bạch thể hiện ở việc đáp ứng các yêu cầu sau:

- Tất cả các quy định, văn bản pháp lý, các hiệp định quốc tế có liên quan hoặc tác động đến thương mại dịch vụ mà các nước thành viên tham gia phải được công bố, ấn hành một cách công khai, rộng rãi.

- Mọi nước thành viên phải có nghĩa vụ đáp ứng đầu đủ các yêu cầu cảu bất kỳ nước thành viên nào khác về những thông tin cụ thể liên quan đến việc áp dụng các quy định nêu trên. Các nước thành viên phải thành lập ít nhất một cơ quan chuyên trách cung cấp thông tin này cho nước thành viên khác khi họ yêu cầu;

- Tất cả các thành viên phải có nghĩa vụ thông báo khẩn trương và ít nhất mỗi năm một lần cho Hội đồng Thương mại dịch vụ của WTO về việc ban hành hoặc bất kỳ sửa đổi nào trong các luật, quy chế hoặc hướng dẫn hành chính có tác động cơ bản đến thương mại dịch vụ thuộc các cam kết cụ thể;


- Các nước thành viên không được phép áp dụng những yêu cầu chuyên môn, yêu cầu về chất lượng dịch vụ, yêu cầu về giấy phép cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật quá cao - mà trong chừng mực nào đó, có thể vô hiệu hoá về mặt pháp lý hoặc làm nguy hại đến việc thực hiện các cam kết cụ thể.

- Khi chính phủ nước thành viên đưa ra những quyết định hành chính có nguy cơ ảnh hưởng tới thương mại dịch vụ, họ cũng phải thiết lập những công cụ mang tính khách quan để rà soát các quyết định này nhằm đảm bảo chúng không bóp méo quá đáng các điều kiện cạnh tranh công bằng của thị trường dịch vụ nội địa.

d, Nguyên tắc công nhận lẫn nhau: mục đích của nguyên tắc này là nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trên thực tế đối với các dịch vụ và người cung cấp dịch vụ nước ngoài.

e, Nguyên tắc tự do hoá từng bước thương mại dịch vụ


Để thực hiện tiến trình tự do hoá thị trường dịch vụ, Điều XX của GATS quy định mỗi nước thành viên phải đưa ra lịch trình những cam kết của mình theo những yêu cầu sau:

- Các điều kiện, quy định, giới hạn về mở cửa thị trường;

- Các điều kiện và tiêu chuẩn về đãi ngộ quốc gia;

- Những bảo đảm liên quan đến các cam kết bổ sung;

- Lộ trình thực hiện các cam kết đó;

- Thời hạn các cam kết đó có hiệu lực.

f, Nguyên tắc liên quan đến các quy tắc trong nước


Theo quy định tại Điều IV, GATS công nhận chủ quyền của các nước thành viên trong việc đưa ra những quy định điều chỉnh các lĩnh vực dịch vụ


trong nước và cố gắng thúc đẩy các nước thành viên minh bạch hoá các quy định, chính sách của mình.

g, Nguyên tắc liên quan đến vấn đề độc quyền và đặc quyền cung cấp dịch vụ

Các nước thành viên có thể cho một số ngành dịch vụ được hưởng độc quyền và đặc quyền. Theo quy định của GATS thị điều này là hoàn toàn hợp pháp (Điều VIII). GATS không ngăn cản việc duy trì hình thức độc quyền nhưng yêu cầu các nước thành viên phải đảm bảo rằng hoạt động của người cung cấp dịch vụ độc quyền phải phù hợp với các nghĩa vụ chung và nghĩa vụ đã cam kết của nước thành viên đó.

h, Nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước thành viên đang phát triển và/hoặc đang trong quá trình chuyển đổi. Nguyên tắc này không chỉ kế thừa những quy định ưu đãi của GATT về thương mại hàng hoá dành cho các nước đang phát triển, mà còn mở rộng áp dụng cho cả thương mại dịch vụ, đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ. Đây là thàn quả đấu tranh liên tục của các nước đang phát triển qua những vòng đàm phán trong khuôn khổ GATT, đặc biệt là vòng đàm phán Uruguay.

i, Nguyên tắc liên quan đến thanh toán và chuyển tiền quốc tế: theo điều XI, GATS thừa nhận việc tự do hoá thực tiễn các giao dịch kinh tế nhưng đòi hỏi phải có kỷ luật áp dụng cho việc di chuyển tư bản.

1.2 Lộ trình cam kết mở cửa thị trường phân phối của Việt Nam


Năm 1995, Việt Nam nộp đơn xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới

- WTO và hiện vẫn đang trong quá trình đàm phán. Để trở thành thành viên chính thức, chúng ta phải thừa nhận các nguyên tắc cơ bản của tổ chức này và thực hiện đàm phán song phương và đa phương với các nước thành viên của WTO. Hiện nay, nước ta đã ký kết được 83 hiệp định thương mại song


phương trong đó có Hiệp định thương mại Việt - Mĩ. Hiệp định này xây dựng, đàm phán và ký kết trên cơ sở các nguyên tắc và quy định của WTO. Do vậy, xét về mặt kỹ thuật, Việt Nam đã đáp ứng đương nhiên các yêu cầu căn bản của WTO, giảm đi những khó khăn trong tiến trình những cam kết và thực hiện cam kết để sớm trở thành thành viên của WTO. Nhưng trước mắt Việt Nam phải mở cửa hoàn toàn trong lĩnh vực thương mại dịch vụ theo lộ trình Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ vào năm 2007. Hiệp định quy định đối với dịch vụ bán lẻ: mỗi nhà cung cấp dịch vụ bán lẻ sẽ tự động được mở một đại lý. Việc thành lập này được xem xét theo từng trường hợp.

Với những cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và một số cam kết của Việt Nam trong việc gia nhập WTO, đến năm 2008 các nhà phân phối nước ngoài có thể thành lập liên doanh với vốn tối đa là 99,99% ở Việt Nam và từ 1/1/2009, những tập đoàn phân phối này mới được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài.

GATS bao gồm các nguyên tắc vô điều kiện (tức là không phụ thuộc vào quá trình đàm phán) và các biện pháp áp dụng có điều kiện (chủ yếu dựa trên các cam kết là kết quả đàm phán của mỗi nước). Vì vậy, không phải ngay lập tức mọi lĩnh vực dịch vụ đều phải vận dụng toàn diện các nguyên tắc của GATS, mà tùy thuộc vào kết quả đàm phán và các cam kết trong lĩnh vực dịch vụ, một quốc gia sẽ thực thi mở cửa thị trường toàn diện hay hạn chế đối với lĩnh vự c dịch vụ đó. Việt Nam đã có những đối sách hết sức hữu hiệu với những nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, Việt Nam chỉ cho phép công ty thành lập một siêu thị 100% vốn nước ngoài tại một tỉnh thành, địa điểm nhất định. Khi họ muốn mở siêu thị thứ hai, Việt Nam có quyền từ chối mà vẫn tuân thủ những quy định của WTO, dựa trên đánh giá nhu cầu thực tế. Như vậy, điều quan trọng nhất của việc kinh doanh bán lẻ là hệ thống phân phối được mở rộng ra, nhưng nhà đầu tư nước ngoài không được phép mở siêu thị thứ hai,


thứ ba. Rõ ràng, những nhà kinh doanh siêu thị trong nước được hưởng lợi từ điều này.

2. Cơ hội


Tuy thị trường bán lẻ Việt Nam còn rất non trẻ và sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn khi Việt Nam mở cửa thị trường cho các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới vào kinh doanh tại đây. Nhưng không vì thế mà các siêu thị Việt Nam sẽ thua ngay từ đầu bởi chúng ta vẫn còn những thuận lợi sau:

Về quy mô dân số, thị trường Việt Nam đang tỏ ra có sức hấp dẫn lớn đối với kinh doanh siêu thị. Dân số Việt Nam hiện nay là trên 83 triệu người và cơ cấu dân số trẻ đang chiếm tỷ trọng lớn, tốc độ tăng dân số đang được kiểm soát ở mức 1,4%/năm.

Về mức sống của người tiêu dùng, thu nhập bình quân đầu người là một chỉ tiêu hết sức quan trọng để các nhà đầu tư quyết định có kinh doanh siêu thị ở khu vực đó hay không. Có thể nói thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam đã không ngừng tăng lên trong thời gian 10 năm qua, năm 2005 thu nhập bình quân đầu người đạt 640 USD/người.

Một tín hiệu đáng mừng nữa là theo Tổng cục Thống kê, năm 2005 sức mua hàng hoá và dịch vụ của người dân Việt Nam tăng khá mạnh, bình quân chi tiêu đầu người một tháng đã lên đến 438.000 đồng/tháng, cao hơn nhiều so với mức 378.000 đồng/tháng của năm ngoái. Tỷ lệ tiêu dùng cuối cùng so với GDP của Việt Nam đạt khoảng trên 70%, thuộc loại cao so với các nước trong khu vực (Singapore đạt 57%, Malaysia đạt khoảng 59%, Thái Lan khoảng 68%...).

Bên cạnh đó, chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng bán lẻ hàng năm cũng là một chỉ tiêu đang thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội của Việt Nam luôn đạt tốc độ tăng trưởng trên 10% (bảng 2.4),


đặc biệt năm 2005 tốc độ tăng trưởng đã đạt mức 476.000 tỉ đồng với tốc độ tăng trưởng là 20,5%. Riêng 6 tháng đầu năm 2006, tổng mức bán lẻ và dịch vụ xã hội đã đạt 46.362 tỉ đồng tăng 19,7% so với cùng kỳ năm 2005.

Mặt khác, các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị Việt Nam hiểu tâm lý, tập quán tiêu dùng của người tiêu dùng trong nước để phục vụ đúng nhu cầu. Trong thời gian gần đây, thói quen của người tiêu dùng đang dần thay đổi, người dân đã bắt đầu quen và thích việc vào siêu thị mua sắm vì ở siêu thị họ có thể mua một lúc được rất nhiều thứ mà họ cần, chất lượng lại đảm bảo, phong cách phục vụ văn minh, Một nghiên cứu của Liên hiệp HTX thương mại thành phố Hồ Chí Minh thực hiện tại các thành phố lớn như Mỹ Tho, Long Xuyên, Phan Thiết, cũng cho thấy có đến 50% những người mua sắm chính trong hộ gia đình đã từng mua hàng tại siêu thị (mặc dù các thành phố trên chưa có siêu thị) và có đến hơn 85% những người được phỏng vấn sẵn sàng đi mua sắm tại siêu thị nếu có loại hình này tại thành phố của họ.

Những thuận lợi trên sẽ tạo ra được những cơ hội mới cho thị trường bán lẻ Việt Nam nói chung và hệ thống siêu thị Việt Nam nói riêng.

Những ưu điểm của việc hội nhập và tự do hoá thị trường dịch vụ là không thể phủ nhận được. Sự góp mặt của các doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường phân phối sẽ tạo nên áp lực cạnh tranh rất lớn buộc các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị trong nước phải luôn không ngừng cải thiện, đổi mới, nâng cao mọi mặt như: giá cả, chất lượng hàng hoá, cung cách phục vụ. Do đó người dân có nhiều điều kiện tiếp cận với nhiều chủng loại hàng hoá với chất lượng và giá cả khác nhau để có thể lựa chọn.

Bên cạnh đó, việc mở cửa thị trường cũng tạo ra những cơ hội mới về hợp tác với các tập đoàn siêu thị nước ngoài. Qua đây, các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị Việt Nam được học hỏi, nâng cao các kinh nghiệm quản lý, điều hành siêu thị, bảo quản hàng hoá, kỹ thuật marketing mới.


Mặt khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài cao vào lĩnh vực bán lẻ sẽ tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Không những thế các nhà sản xuất trong nước còn có cơ hội xuất khẩu hàng của mình ra nước ngoài thông qua liên doanh phân phối.

3. Thách thức


Thách thức lớn nhất đối với các siêu thị Việt Nam là phải cạnh tranh không cân sức với các tập đoàn bán lẻ quốc tế có sức mạnh về tài chính, thế mạnh về công nghệ quản lý, thương hiệu và kinh nghiệm. Các tập đoàn này dễ dàng đầu tư hàng chục triệu USD để xây dựng các siêu thị rộng vài héc ta, thậm chí còn chịu lỗ để thu hút khách hàng. Sự xuất hiện của nhiều tập đoàn siêu thị lớn trên thế giới sẽ làm giảm đi đáng kể lượng khách của các siêu thị trong nước. Đặc biệt là các siêu thị loại III và không phân loại được có thể sẽ biến mất nhanh chóng cùng với sự xuất hiện của các siêu thị hiện đại, chuẩn mực hơn.

Cơ sở kỹ thuật còn lạc hậu, nghèo nàn, thiếu vốn. Phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị ở Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa, vốn ít nên khả năng phát triển xây dựng các siêu thị quy mô lớn hay phát triển các chuỗi siêu thị gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài lại có đủ tiềm lực kinh tế và kinh nghiệm để phát triển.

Việc thâu tóm và điều chỉnh được cuộc cạnh tranh khốc liệt này là một bài toán khó đối với các nhà quản lý. Những nhà độc quyền này có thể sẽ sử dụng các biện pháp không lành mạnh để loại bỏ đối thủ cạnh tranh cũng như lạm dụng khách hàng. Để đối phó với việc này, Bộ Thương mại nên tính đến các biện pháp phòng chống các chiến lược về giá cả không lành mạnh đối với một số mặt hàng.

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 01/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí