thương mại thế giới WTO ta không cam kết mở cửa thị trường xăng dầu, tuy vậy, theo xu thế chung của thị trường, trong tương lai thị trường xăng dầu trong nước cần hội nhập với thị trường xăng dầu thế giới. Khi đó các doanh nghiệp nước ngoài có cơ hội gia nhập thị trường trong nước để cùng tham gia kinh doanh xăng dầu. Để có thể tồn tại trong môi truờng tự do cạnh tranh thì các doanh nghiệp kinh doanh trong nước sẽ phải tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua chính sách giá cả hợp lý, dịch vụ chu đáo. Chắc chắn khi đó, người tiêu dùng sẽ được hưởng mức giá cạnh tranh hơn, chất lượng mặt hàng tốt hơn. Khi càng có nhiều doanh nghiệp tham gia thị truờng, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau, muốn lôi kéo khách hàng thì phải hạ giá sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ. Như thị trường xăng dầu Nhật Bản và Trung Quốc, do cung cấp xăng dầu với giá rẻ theo thị trường quyết định và cung cấp với lượng ổn định nên kinh doanh xăng dầu ở 2 thị trường này diễn ra rất quyết liệt.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, để có thể chủ động hội nhập với môi trường quốc tế thì cần phải hoàn thiện cơ chế quản lý, đổi mới mô hình tổ chức theo hướng tinh gọn, hiện đại. Bên cạnh đó phải xác lập các phương án huy động vốn cho nhu cầu đầu tư dài hạn để tạo thế mạnh về hạ tầng kinh doanh khi nước ta thực sự mở cửa hội nhập. Trước mắt, các doanh nghiệp cần thiết lập hệ thống phân phối lâu dài và ổn định. Hệ thống phân phối mạnh cùng với chất lượng giá cả, dịch vụ tốt sẽ là yếu tố đảm bảo cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu của Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh của mình ở thị trường trong nước và thị trường thế giới trước thềm hội nhập.
Theo Bộ Công thương, việc thực hiện Nghị định 55/2007/NÐ-CP về kinh doanh xăng, dầu gần hai năm qua đã góp phần chuyển KD mặt hàng đặc biệt này sang cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước, bảo đảm nguồn cung xăng, dầu cho thị trường trong nước trong mọi tình huống, từng bước tổ chức
và phát triển hệ thống phân phối xăng, dầu theo quy hoạch, gắn trách nhiệm từ doanh nghiệp KD xuất nhập khẩu xăng, dầu đến đại lý và trạm bán lẻ.
Tuy nhiên, sự biến động bất thường của thị trường thế giới vừa qua và sau khi chuyển KD toàn bộ mặt hàng xăng, dầu theo cơ chế thị trường thì một số nội dung của Nghị định 55 không còn phù hợp. Ngoài ra, từ quý I năm 2009, ngoài nguồn cung từ nhập khẩu, sẽ có thêm nguồn cung từ lọc dầu trong nước, nên cần có thêm quy định để quá trình KD từ các nguồn khác nhau có điều kiện cạnh tranh bình đẳng.
Thời gian qua, nhất là trong năm 2008, một số DN trong thời điểm khó khăn đã giãn tiến độ nhập khẩu, không tham gia tích cực vào bình ổn thị trường; ngược lại khi điều kiện KD thuận lợi lại tăng tiến độ nhập khẩu, gây khó khăn cho các DN thực hiện nghiêm túc công tác bảo đảm nguồn cung. NÐ 55 chỉ quy định DN nhập khẩu xăng, dầu phải nhập khẩu theo hạn mức tối thiểu được giao hằng năm và DN sản xuất phải đăng ký kế hoạch sản xuất hằng năm. Do vậy, cần bổ sung quy định về đăng ký và thực hiện nhập khẩu, sản xuất theo thời gian ngắn hơn là hằng quý.
Về quy định giá bán xăng, dầu, NÐ 55 giao liên Bộ Tài chính - Công thương thiết lập cơ chế để DN tự điều chỉnh giá bán khi giá thế giới bình quân trong khoảng thời gian nhất định trước đó (từ 15 đến 20 ngày) biến động trong biên độ nhất định (từ 15% đến 20%)70. Thực tế, giá thế giới biến động rất phức tạp cả về thời gian và biên độ (Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thành lập Quỹ bình ổn giá xăng, dầu), cho nên cần sửa đổi NÐ 55 theo hướng giao liên Bộ Tài chính - Công thương hướng dẫn cơ chế tự điều chỉnh giá bán của DN phù hợp sự biến động thị trường thế giới từng thời kỳ, trong khoảng thời gian tương ứng quy định về dự trữ lưu thông bắt buộc.
70 Tổng hợp từ website Báo Nhân dân: http://www.nhandan.org.vn/tinbai/?top=37&sub=152&article=141542
Về thuế nhập khẩu xăng, dầu, để tình hình KD của DN; giá bán trong nước và nguồn thu ngân sách được ổn định, đề nghị ổn định thuế suất thuế nhập khẩu xăng, dầu trong một thời gian nhất định (có thể ít nhất là trong một quý) và tiến tới áp dụng mức thuế nhập khẩu tuyệt đối (trên lít, kg xăng, dầu).
Có thể bạn quan tâm!
- Nguyên Nhân Cơ Bản Gây Nên Biến Động Giá Cả Xăng Dầu Trên Thị Trường Việt Nam Giai Đoạn 2004-2008
- Sự Cần Thiết Phải Điều Chỉnh Giá Xăng Dầu Theo Cơ Chế Thị Trường
- Một Số Giải Pháp Nhằm Điều Tiết Giá Xăng Dầu Trong Thời Gian Tới
- Tổng quan về thị trường dầu mỏ thế giới và ảnh hưởng của biến động giá xăng dầu tới nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2004-2008 - 12
- Tổng quan về thị trường dầu mỏ thế giới và ảnh hưởng của biến động giá xăng dầu tới nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2004-2008 - 13
Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.
Như vậy, để đưa kinh doanh, sản xuất xăng, dầu trong nước vận hành theo cơ chế thị trường đầy đủ, có sự quản lý của Nhà nước, bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng, giữ ổn định tương đối, tăng chất lượng dự báo và lập kế hoạch..., cần bổ sung, điều chỉnh cơ chế quản lý sản xuất, kinh doanh xăng, dầu theo sát thực tế.
2.3. Sử dụng tiết kiệm lượng xăng dầu hiện có
Với điều kiện giá cả xăng dầu tăng nhanh như hiện nay, nước ta cần tổ chức thực hiện ngay chiến lược được sử dụng nhiên liệu tiết kiệm hợp lý trong cả sản xuất và tiêu dùng như nhiều nước đang áp dụng, như: Thứ nhất, điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế thông qua việc xây dựng những ngành sản xuất có hàm lượng các bon thấp (tức là ngành kinh tế sử dụng ít nhiên liệu). Thứ hai, cần thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu tiêu dùng nhiên liệu thông qua việc đa dạng hóa cung ứng và sử dụng các nguồn năng lượng khác không để nền kinh tế quá phụ thuộc vào dầu mỏ như: khí đốt, sức gió, điện mặt trời, thủy điện nguyên tử, nhiên liệu sinh học….
Tiết kiệm nguồn năng lượng không chỉ là yêu cầu cấp thiết đặt ra với nước ta mà còn là vấn đề được toàn cầu quan tâm. Trong hoàn cảnh hiện nay bên cạnh việc tích cực tìm ra nguồn năng lượng thay thế, chúng ta vẫn cần tiết kiệm tối đa lượng xăng dầu hiện có. Việc tiết kiệm này cần xuất phát từ ý thức của mỗi cá nhân, tập thể, các hộ gia đình cũng như ở các cơ quan xí nghiệp…
2.3.1. Tiết kiệm xăng dầu trong sản xuất kinh doanh
Đối với doanh nghiệp sản xuất nói chung: Một trong những điều cần thiết là phải cải tiến công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của máy móc. Bên cạnh
đó, phải biết tiết kiệm chi phi đầu vào, sử dụng hợp lý nguồn nhiên liệu nhằm tiết kiệm một cách hiệu quả nhất. Cụ thể với từng ngành như sau:
Đối với ngành vận tải: Cần giảm định mức tiêu hao nhiên liệu, chi phí quản lý, kéo dài thời gian khấu hao cho phương tiện, hợp lý hóa quy trình vận tải, tăng khả năng vận chuyển 2 chiều để giảm tỷ lệ xe chạy rỗng… Nghiên cứu hoàn thiện quy định về quản lý, tổ chức các loại hình vận tải nhằm phát huy tính ưu việt của từng loại phương tiện, phát triển hài hòa các loại hình vận tải… tránh tình trạng có nhiều doanh nghiệp vận tải nhưng manh mún, quy mô nhỏ lẻ lại hoạt động chồng chéo… dẫn đến tỷ lệ phương tiện chạy rỗng khá cao, gây lãng phí và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của xã hội71.
Đối với sản xuất kinh doanh xi măng: Nâng cao chất lượng clinker72, triệt để
tiết kiệm các định mức tiêu hao vật tư chủ yếu như than, điện, xăng dầu, gạch chịu lửa… cải tiến công nghệ sử dụng than thay cho dầu. Nâng cao công suất máy móc thiết bị, kéo dài thời gian chạy máy: hợp lý hóa quá trình mua bán vật tư, lưu thông xi măng nhằm giảm các khoản chi phí trung chuyển, bốc xếp qua kho.
Đối với sản xuất kinh doanh thép: Cũng giống như xi măng, cần quản lý chặt chẽ chất lượng của nguyên liệu đầu vào nhằm giảm tiêu hao vật tư, xây dựng định mức nguyên vật liệu, hàng tồn kho hợp lý.
Ngành than: Sản xuất theo hướng tập trung nâng cao công suất các mỏ, giảm đầu mối quản lý. Tăng thời gian hữu ích, giảm giờ máy ngừng, hợp lý hóa khâu cung ứng vật tư đồng thời sử dụng các biện pháp tiết kiệm chi phí thông qua đầu tư đối với từng loại hình khai thác than.
Ngành điện: Vận hành tối ưu các nguồn điện có giá thành thấp (thủy điện, nhiệt điện than, tuabin khí, đuôi hơi), đồng thời hạn chế tối đa việc huy động các nguồn điện chạy dầu để nâng cao hiệu quả kinh tế. Tiếp tục phấn đấu
71 Báo thị trường giá cả, số tháng 09/2006.
72 Clinker: sản phẩm nung thiêu kết ở 1450 độ C của đá vôi, đất sét và 1 số phụ gia điều chỉnh hệ số như bô xít, quặng sắt, cát… Chất lượng clinker sẽ quyết định tính chất của xi măng.
giảm suất tiêu hao nhiên liệu và điện tiêu dùng trong sản xuất so với kế hoạch được giao; hạn chế vật tư tồn kho, nhất là các loại xăng, dầu, mỡ máy, các loại dây cáp điện, sắt thép và một số loại vật liệu xây dựng. Xu hướng mới hiện nay vẫn đang tiến hành nghiên cứu và áp dụng là sử dụng nguồn năng lượng mặt trời thay thế cho điện thông thường. Như vậy sẽ giảm bớt vai trò của xăng dầu đối với ngành này so với hiện nay.
Lĩnh vực đánh bắt xa bờ: Nhà nước đã đưa ra các giải pháp về tín dụng như xử lý nợ vay tín dụng đóng tàu khai thác xa bờ, giao cho ngân hàng thực hiện, giãn nợ cho ngư dân khai thác hải sản. Bộ tài chính đang hướng dẫn giảm nợ cho ngư dân. Về lâu dài, cần hướng dẫn lại tổ chức sản xuất theo hướng phối hợp giữa khai thác hải sản với dịch vụ hậu cần nghề cá nhằm tiết kiệm nhiên liệu và bảo quản sau khai thác. Tăng cường công tác điều tra nguồn lợi hải sản, nâng cao năng lực dự báo ngư trường khai thác để giúp ngư dân giảm chi phí nhiên liệu cho việc tìm kiếm ngư trường. Đẩy mạnh công tác khuyến ngư, hỗ trợ, đào tạo cho nghề cá nhằm nâng cao trình độ kĩ thuật, nghề nghiệp và quản lý của cán bộ, thuyền viên và chủ tàu. Ngoài các giải pháp từ Nhà nước, bản thân ngư dân cũng cần nỗ lực hơn nữa trong nhận thức để chuyển đổi nghề nghiệp, tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết sản xuất và dịch vụ nhằm nâng cao giá trị hải sản khai thác, hiệu quả đánh bắt và tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm để tăng thu nhập, lợi nhuận.73
2.3.2. Tiết kiệm xăng dầu trong tiêu dùng
Trong tiêu dùng, việc tiết kiệm xăng dầu là ý thức chung của mỗi cá nhân, mỗi tập thể nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực của đất nước. Đối với các cơ quan, cần kiểm tra, giám sát chặt chẽ số lượng ô tô, xe máy được Nhà nước trang bị đảm bảo đủ nhu cầu sử dụng của đơn vị. Ngoài ra kiên quyết không để xảy ra tình trạng sử dụng xe công cho việc riêng. Bên cạnh đó, quản lý chặt chẽ nguồn ngân sách của Nhà nước chi cho việc sử dụng xe công thông
73 Tổng hợp từ Tạp chí Thương mại và Thị trường giá cả từ năm 2004 – 2007.
qua mức giới hạn sử dụng Ngân sách hàng năm cho mỗi đơn vị. Đối với cá nhân và hộ gia đình, cần tuyên truyền nâng cao ý thức tiết kiệm xăng dầu, vì lợi ích của cá nhân và toàn xã hội. Mặc dù phương tiện giao thông là không thể thiếu đối với nhu cầu đi lại của mỗi người song người tiêu dùng vẫn có thể tiết kiệm xăng dầu bằng cách lựa chọn loại phương tiện tiêu hao ít nhiên liệu, kiểm tra và bảo dưỡng xe định kì, sử dụng phương tiện hợp lý… Ngoài ra, có thể lựa chọn một loại phương tiện giao thông phù hợp thay thế như: sử dụng xe buýt thay thế cho xe máy (đặc biệt phù hợp với công nhân viên chức, sinh viên…), hoặc xe đưa đón nhân viên (với những công ty, nhà máy ở xa đô thị)… cũng là một trong những giải pháp tiết kiệm xăng dầu có tính khả thi.
2.4. Bảo đảm nguồn dự trữ xăng dầu trong nước
Cần thiết phải có dự trữ của Nhà nước và của doanh nghiệp để bảo đảm an ninh năng lượng, tham gia điều hòa cung cầu khi thị trường có những biến động bất thường. Các nước trên thế giới hiện nay tích cực tăng cường dự trữ xăng dầu. Ở Mỹ, dự trữ khối lượng xăng dầu bằng 100 ngày tiêu thụ bình quân. Nhật coi trọng việc dự trữ dầu để ổn định nguồn cung cấp năng lượng và để bình ổn thị trường khi thị trường thế giới có những đột biến giá hoặc giá
trong nước tăng cao bất hợp lý. Hiện dự trữ của Nhật tương đương 173 ngày tiêu dùng. Ở Việt Nam dự trữ xăng dầu mới có 35 ngày.74
Theo thông tin từ Bộ Công nghiệp, Việt Nam mới có kho dầu dự trữ thương mại của các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu với tổng dung tích trên 1 triệu m3 tập trung ở Quảng Ninh, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Đà Nẵng. Về dự trữ lưu thông, NÐ 55 quy định DN phải bảo đảm mức dự trữ
lưu thông bằng 20 ngày, cung ứng theo kế hoạch cả về số lượng và chủng loại và tăng dần lên ít nhất 30 ngày vào năm 2010. Ðể bảo đảm an toàn, an ninh năng lượng trong tình hình mới và phù hợp nhịp độ tăng trưởng kinh tế, nhiều chuyên
74 Website Bộ Tài chính: http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=24839, tra cứu 09/04/2009
gia đề nghị tăng mức dự trữ hiện nay lên 30 ngày và ít nhất là 35 ngày vào năm 201575. Sau năm 2015, mỗi năm phải tăng mức dự trữ thêm hai ngày.
Ngoài kho dự trữ thương mại của doanh nghiệp, các kho dự trữ chiến lược được hình thành theo Quyết định 93/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Quy hoạch phát triển hệ thống kho tiếp nhận đầu mối, kho trung chuyển, kho phân phối xăng, dầu trên phạm vi cả nước đến năm 2010”. Tuy nhiên, kho dự trữ quốc gia nêu trên chỉ sử dụng trong các trường hợp bão lụt, thiên tai, những trường hợp bất khả kháng và chưa đáp ứng được mục tiêu bình ổn thị trường giá xăng dầu trong nước trong thời gian dài. Vì vậy, về lâu dài theo các chuyên gia, Việt Nam phải tính đến việc lập kế hoạch, quy hoạch, xác định mục tiêu, qui mô dự trữ xăng dầu quốc gia theo các giai đoạn khác nhau (cân đối với dự trữ trong lưu thông); xác định khu vực dự trữ; tổng vốn và nguồn vốn; phân công công việc giữa các bộ ngành… Tiếp theo là
hoàn thiện Quy chế quản lý xăng dầu dự trữ quốc gia76 cho mục tiêu bình ổn
giá xăng dầu trong nước, theo đó, cần chú ý đến kế hoạch tăng, giảm dự trữ, luân phiên đổi xăng dầu trong kho; kế hoạch phát triển và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng…
Bộ Công nghiệp cho biết trong khuôn khổ hợp tác giữa các nước ASEAN+3 (gồm Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), các nước công nghiệp phát triển đều cho rằng cần xây dựng hệ thống dự trữ xăng dầu để đảm bảo an ninh năng lượng của các quốc gia, đối phó với những biến động xấu bởi khủng hoảng xăng dầu trên thế giới. Nhật Bản và Hàn Quốc đã lên 1 chương trình trợ giúp các nước khác (trong đó có Việt Nam) về xây dựng kho dự trữ xăng dầu chiến lược77. Việt Nam cũng đang xem xét chủ trương kêu gọi đầu tư nước ngoài để đầu tư vốn và công nghệ xây dựng kho dự trữ xăng dầu, bởi đến nay lĩnh vực này vẫn còn khá mới mẻ đối với Việt Nam.
75 Website báo Nhân dân: http://www.nhandan.org.vn/tinbai/?top=37&sub=152&article=141542
76 Quy chế quản lý xăng dầu dự trữ quốc gia, ban hành kèm theo NĐ 10/CP-TTg.
77 Thời báo Kinh tế Việt Nam, tháng 02/2008.
Công tác điều hành xăng dầu ở Việt Nam còn gặp khó khăn do chúng ta không có đầy đủ những công cụ. Mà cụ thể ở đây là dự trữ phục vụ lưu thông và bình ổn giá. Điều này, phụ thuộc vào tiềm lực của quốc gia, không thể trông chờ vào các DN. Các quốc gia, bên cạnh dự trữ chiến lược, đều có kho dự trữ xăng dầu nhằm đối phó với những tình huống biến động giá cả. Trong trường hợp giá tăng cao, kho dự trữ sẽ xuất ra nhằm đạt được giá cả ổn định trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, dự trữ để điều hành giá cả của Việt Nam gần như không có. Hiện nay, dự trữ lưu thông chủ yếu trông chờ vào các kho dự trữ của DN. Theo quy định DN phải dự trữ khoảng 10%, con số này tương đương khoảng 3 ngày lưu thông bán hàng của DN, một con số khá mỏng manh trước nhu cầu toàn thị trường và rất ít có khả năng tham gia bình ổn giá.
Trên thế giới có rất nhiều nước phải nhập khẩu xăng dầu nhưng nhờ tiềm lực mạnh nên họ có dự trữ và dự trữ trở thành một công cụ hữu hiệu để tham gia bình ổn giá. Còn ở Việt Nam điều này gần như không có do tiềm lực chúng ta hạn chế. Dự trữ trong nước đang đặt hy vọng rất lớn vào việc xây dựng các nhà máy lọc dầu. Rõ ràng, khi thị trường hóa xăng dầu, với hoàn cảnh các yếu tố thị trường cạnh tranh chưa hoàn hảo, còn nhiều bất cập cả về năng lực và tiềm lực hẳn sẽ có nhiều khó khăn nảy sinh. Trong những lúc như thế, một biện pháp hành chính là điều có thể được chấp nhận. Tuy nhiên, về dài hạn, điều này không thể lặp đi lặp lại mãi nếu chúng ta muốn có một nền kinh tế thị trường thực sự và đang kêu gọi các nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
2.5. Tìm kiếm những nguồn năng lượng thay thế
Theo dự đoán của EIA, từ nay đến 2030 tỷ trọng tiêu thụ dầu lửa trong tổng tiêu thụ năng lượng của thế giới sẽ giảm xuống còn 33% (so với mức 38% hiện nay), trong cùng thời gian trên, tiêu thụ than đá sẽ tăng từ 24% hiện
nay lên tới 27%, các dạng nhiên liệu tái tạo có thể lên tới 8-9%. Mặt khác,